Trong nhiều trường hợp, không biết rõ nguyên nhân gây bệnh nhưng hầu hết vết viêm loét miệng đều xuất phát từ tổn thương ở mô mềm trong khoang miệng. Bệnh viêm loét miệng đều tự khỏi trong 1 đến 2 tuần. Chúng gây đau, có thể giảm đau bằng các loại thuốc gây tê tại chỗ có bán ngoài hiệu thuốc và các nước xúc miệng chống khuẩn.
Ung thư amidan khẩu cái là một trong những loại ung thư vùng tai mũi họng thường gặp ở Việt Nam. loại này có ưu điểm là mềm mại, liều lượng tính chính xác được sau khi kiểm tra, lượng tia thường dùng 70-80Gy trong 7- 8 ngày. Bệnh viêm dạ dày ruột cấp tính thường
Xịt kháng khuẩn cho da dùng công nghệ tế bào gốc từ 2 loại thực vật có khả năng kháng viêm hàng đầu trong tự nhiên giúp bảo vệ, phục hồi, nuôi dưỡng và làm đẹp da cho trẻ. Xử lý các vấn đề: Hăm, mẩn đỏ, vết côn trùng đốt, trầy xước da, vết bỏng, vết thương ngoài da, mụn có mủ, mụn bọc, mụn đầu đinh,… Sản phẩm dạng xịt để tránh việc dùng tay bôi.
Uçak Fotoğrafları ve Havacılık Fotoğrafları - Fotoğrafları Görüntüleyin, Arayın veya Yükleyin! 1.000.000'dan fazla fotoğraf
6.2 Ung thư mô liên kết amidan khẩu cái Khác với ung thư biểu mô, ung thư liên kết amidan thường nhạy cảm với tia xạ nên điều trị tia xạ là chủ yếu. Gần đây, nhiều nước đã kết hợp tia xạ với điều trị hóa chất mang lại kết quả khả quan trong điều trị bệnh.
Khẩu trang y tế 5 lớp CK kháng khuẩn màu đen ( 1 hộp 50 cái ) được phân phối bởi Bách Hoá Thành Điệp uy tín, chất lượng, giao hàng toàn quốc, thu tiền tại nhà. Đảm bảo giao hàng đúng chất lượng, mẫu mã, đổi trả nếu không hài lòng.
EuEb. Nhà thuốc Ngọc Anh – Để tải bài viết Viêm niêm mạc miệng Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và hướng dẫn điều trị theo BMJ file PDF xin vui lòng click vào link ở đây. Tóm tắt ◊ Viêm cấp tính ở niêm mạc miệng sau khi hóa trị liệu toàn thân và/hoặc phát xạ. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa trên bệnh sử và khám lâm sàng. ◊ Biểu hiện lâm sàng khác nhau từ ban đỏ đến loét theo đám hoặc loét hợp nhất thường với màng giả mạc trên bề mặt hoặc hiếm khi hoại tử rõ ràng. ◊ Nếu nặng, có thể giảm liều hóa trị liệu không mong muốn và/hoặc áp dụng ◊ Các tổn thương thường rất đau. Điều trị theo triệu chứng và bao gồm vệ sinh răng miệng và kiểm soát ◊ Điều trị phòng ngừa bao gồm palifermin, liệu pháp la-de mức thấp, và sử dụng các mẫu đá trong khi điều trị tiêm truyền hóa trị liệu. Thông tin cơ bản Định nghĩa Viêm niêm mạc miệng thứ phát do điều trị ung thư là viêm niêm mạc miệng cấp tính đáp ứng với hóa trị liệu và/hoặc phát xạ toàn thân đến các khu vực ảnh hưởng khoang miệng. Biểu hiện lâm sàng từ viêm dạ dày dạng chấm đến tổn thương loét trợt và loét rõ ràng. Các tổn thương thường rất đau, có thể làm suy giảm dinh dưỡng và vệ sinh răng miệng, và có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng khu trú và toàn thân. Hơn nữa, viêm niêm mạc miệng nặng có thể cần giảm liều hóa trị liệu không mong muốn và/hoặc áp dụng xạ trị. Do đó, viêm niêm mạc là biến chứng cao đáng kể của liệu pháp điều trị ung thư, với khả năng tác động lên tiên lượng của bệnh nhân.[1] Dịch tễ học Theo dữ liệu báo cáo cho biết viêm niêm mạc miệng xảy ra ở 20% đến 40% bệnh nhân người lớn bị ung thư đang được hóa trị liệu thông thường để điều trị khối u thể rắn,[2] khoảng 80% bệnh nhân đang được hóa trị liệu liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu,[3] và hầu hết các bệnh nhân đang được xạ trị điều trị ung thư đầu và cổ.[4] Bệnh căn học Viêm niêm mạc miệng do ảnh hưởng của liệu pháp hóa trị liệu và/hoặc xạ trị ung thư trên niêm mạch miệng gây ra. Một số loại thuốc hóa trị liệu liên quan đến viêm niêm mạc nặng hơn các loại khác. Ví dụ như fluorouracil là loại thuốc đặc biệt gây độc cho niêm mạc. Các phác đồ có sử dụng fluorouracil liều nhanh gây viêm niêm mạc nhiều hơn các phác đồ sử dụng thuốc tiêm truyền trong thời gian dài hơn. Phác đồ hóa trị liệu liều cao hơn sử dụng docetaxel, doxorubicin, cyclophosphamide ví dụ như TAC để điều trị ung thư vú liên quan đến nguy cơ viêm niêm mạc miệng cao hơn.[2] Viêm niêm mạc do xạ trị thường hạn chế ở vị trí trong phạm vi phát xạ. Do đó, viêm niêm mạc miệng thường gặp hơn ở những bệnh nhân có bệnh ác tính nguyên phát ảnh hưởng đến khoang miệng hoặc họng hầu, so với những bệnh nhân có bệnh ác tính nguyên phát ở các vị trí đầu và cổ khác ví dụ như thanh quản.[5] Mức độ viêm niêm mạc nặng do phát xạ phụ thuộc vào liều dùng và chương trình điều trị. Hầu hết các bệnh nhân được xạ trị nhận hơn 5000 cGy sẽ tiến triển viêm niêm mạc loét, và bệnh lý này có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân được thay đổi lịch chiếu xạ hơn là những bệnh nhân được xạ trị thông thường.[5] Hơn nữa, những bệnh nhân được hóa trị liệu đồng thời với xạ trị đầu và cổ hóa xạ trị có nhiều khả năng đáng kể tiến triển viêm niêm mạc miệng hơn những người không sử dụng.[5] Sinh lý bệnh học Sinh lý bệnh có tính đa nhân tố. Mô hình 5 giai đoạn được đề xuất.[6] [7] Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý rằng những biến cố này không hoàn toàn theo tuyến và thường xảy ra đồng thời. • Bắt đầu thương tổn mô xạ trị và/hoặc hóa trị liệu, dù trực tiếp hay thông qua việc tạo các loại oxy phản ứng, gây tổn thương tế bào làm chết tế bào đáy biểu mô của niêm mạc miệng. Việc giải phóng các phân tử đặc trưng liên quan đến tổn thương nội sinh khỏi tế bào bị tổn thương có thể kích hoạt một đợt viêm. • Tăng cường điều chỉnh viêm các gốc oxy tự do kích hoạt thông điệp thứ hai truyền tín hiệu từ các thụ thể trên bề mặt tế bào vào trong tế bào, dẫn đến tăng cường điều chỉnh cytokine tiền viêm, thương tổn mô, và chết tế bào. • Phát tín hiệu và khuếch đại tăng cường điều chỉnh các cytokine tiền viêm như TNF-alpha, gây thương tổn trực tiếp cho tế bào biểu mô và kích hoạt các đường phân tử làm khuếch đại tổn thương niêm mạc. • Loét và nhiễm trùng loét miệng do hệ vi khuẩn trong miệng khu trú thứ phát, gây tăng cường điều chỉnh thêm các cytokine tiền viêm và thâm nhiễm các tế bào viêm. • Chữa lành sự gia tăng biểu mô và biệt hóa mô góp phần vào quá trình chữa lành. Phân loại Theo điều trị ung thư • Viêm niêm mạc miệng do hóa trị liệu gây ra • Thứ phát do hóa trị liệu liều tiêu chuẩn • Thứ phát do hóa trị liệu liều cao thực hiện trước khi ghép tế bào gốc tạo máu • Viêm niêm mạc miệng do tia xạ gây ra Phòng ngừa Ngăn ngừa sơ cấp Nhiều chiến lược phòng ngừa khác nhau đã được xác định và khuyến nghị.[9] Cần sử dụng tùy chỉnh theo phác đồ điều trị ung thư cho từng cá nhân. Đối với những bệnh nhân sử dụng thuốc hóa trị liệu liều tiêm nhanh với thời gian bán thải ngắn, như fluorouracil và melphalan, sử dụng các viên đá để áp lạnh’ có thể giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng.[10] Người ta cho rằng ảnh hưởng này qua trung gian giảm cung cấp thuốc vào niêm mạc miệng thứ phát do co mạch cục bộ. Cần ngậm đá trong miệng, bắt đầu 5 phút trước khi sử dụng hóa trị liệu và thêm đá nếu cần trong tối đa 30 phút. Có thể sử dụng yếu tố tăng trưởng tế bào keratin tái tổ hợp ở người -1 palifermin để giảm tỷ lệ mắc bệnh và thời gian viêm niêm mạc miệng nặng ở bệnh nhân bị bệnh lý huyết học ác tính đang được điều trị với liệu pháp tiêu hủy tủy xương cần hỗ trợ tạo máu.[11] Thuốc được truyền qua đường tĩnh mạch trong 3 ngày liên tiếp trước và 3 ngày sau khi hóa trị liệu. Giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt có thể giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng ở bệnh nhân đang được hóa trị liệu.[12] [13] [14] Chăm sóc răng miệng thích hợp trước khi bắt đầu điều trị, và sử dụng quy trình chăm sóc răng miệng trong khi điều trị có thể là chiến lược phòng ngừa hữu ích.[15] Chăm sóc răng miệng cần bao gồm sử dụng bàn chải đánh răng mềm và thường xuyên thay mới. Ở bệnh nhân phục hình răng kim loại, sử dụng thiết bị như bảo vệ răng, cục bông, hoặc sáp để phân cách kim loại với niêm mạc có thể phòng ngừa viêm niêm mạc gần bên do tán xạ ngược.[16] Liệu pháp la-de mức thấp giúp giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc miệng cho bệnh nhân được hóa trị liệu hoặc hóa xạ trị liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu, và bệnh nhân được xạ trị đầu và cổ mà không được hóa trị liệu đồng thời.[17] Không rõ cơ chế hoạt động, nhưng dường như thông qua việc thúc đẩy chữa lành và tác động kháng viêm.[18] [19] Ở nhiều trung tâm không sử dụng liệu pháp la-de mức thấp. Nước rửa miệng benzydamine cho thấy giúp giảm mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc ở bệnh nhân được xạ trị đầu và cổ ở liều trung bình lên đến 50 Gy mà không được hóa trị liệu đồng thời.[20] Tuy nhiên, hầu hết các phác đồ xạ trị điều trị ung thư đầu và cổ sử dụng liều dùng 60-70 Gy, và hiện thường sử dụng hóa trị liệu đồng thời. Ngăn ngừa thứ cấp Các chiến lược phòng ngừa thứ cấp đối với viêm niêm mạc miệng giống với phòng ngừa ban đầu. Tiền sử ca bệnh Tiền sử ca bệnh 1 Một bệnh nhân nữ 57 tuổi có biểu hiện đau miệng nặng. Bà ấy cho biết tiền sử gần đây được hóa trị liệu để điều trị ung thư kết tràng với phác đồ FOLFOX 5-fluorouracil, calcium folinate [leucovorin], và oxaliplatin. Chu trình hóa trị liệu gần đây nhất của bà ấy là 2 tuần trước. Khi khám, niêm mạc miệng dường như ban đỏ, với các vết loét chú ý thấy ở hai bên trên lưỡi bên và niêm mạc má. Tiền sử ca bệnh 2 Một bệnh nhân nam 66 tuổi có biểu hiện đau miệng và đau họng nặng khiến ông ấy không thể ăn được thức ăn đặc. Ông ấy có tiền sử điều trị tia xạ liên tục để điều trị ung thư đáy lưỡi bên phải. Ông ấy đã hoàn tất 6 tuần trong phác đồ xạ trị 7 tuần theo kế hoạch. Khi khám lâm sàng, niêm mạc miệng ở bên phải miệng dường như phát ban đỏ, với các vết loét lớn phủ một màng giả thấy ở lưng lưỡi bên phải và hầu miệng. Cách tiếp cận chẩn đoán từng bước Viêm niêm mạc miệng thường được chẩn đoán dựa trên bệnh sử và PE. Yếu tố chẩn đoán quan trọng nhất là tiền sử hóa trị liệu và/hoặc xạ trị để điều trị ung thư. Trong các trường hợp nhất định, có thể thực hiện xét nghiệm để loại bỏ các bệnh lý khác có thể giống hoặc gây biến chứng từ viêm niêm mạc. Tiền sử và PE Tiền sử cần bao gồm loại điều trị ung thư mà bệnh nhân đang được điều trị, bao gồm phác đồ và cường độ. Phác đồ hóa trị liệu, xạ trị tích cực vào khoang miệng,1[C]Evidence liệu trình liều chiếu,2[C]Evidence và hóa xạ trị để điều trị ung thư miệng3[C]Evidence liên quan chặt chẽ với nguy cơ viêm niêm mạc miệng tăng cao.[2] [5] Cần đặt câu hỏi cho bệnh nhân về các triệu chứng như đau miệng hoặc chảy máu, về bất kỳ khó khăn nào khi nuốt và duy trì lượng thức ăn và chất dịch. Khả năng duy trì lượng thức ăn và bù nước bình thường qua đường uống bị ảnh hưởng bởi mức độ nghiêm trọng của viêm niêm mạc. Cần xác định chắc chắn biểu hiện và mức độ suy giảm ví dụ như nếu bệnh nhân có thể ăn uống bình thường; ăn và nuốt chế độ ăn được thay đổi; hoặc nếu không thể ăn hoặc uống đầy đủ. Bệnh nhân được xạ trị vào đầu và cổ có thể cho biết khô miệng. Bệnh nhân cũng có thể cho biết tiêu chảy do viêm niêm mạc tiêu hóa liên quan. Khi khám, các thay đổi niêm mạc miệng từ ban đỏ đến loét theo đám hoặc loét hợp nhất thường với màng giả mạc trên bề mặt hoặc hiếm khi hoại tử rõ ràng.[21] Ở bệnh nhân được hóa trị, các tổn thương có thể một bên hoặc hai bên, và thường giới hạn ở niêm mạc miệng không bị sừng hóa. Các vị trí thường gặp bao gồm niêm mạc má, mặt bụng lưỡi, và khẩu cái mềm. [Fig-2] mặt bên [Fig-1] Ở bệnh nhân được hóa trị liệu liều tiêu chuẩn, các tổn thương thường xảy ra trong vòng 2 tuần từ khi bắt đầu, và khỏi trong vòng 2 đến 4 tuần. Các tổn thương có thể kéo dài lâu hơn ở bệnh nhân được hóa trị liệu liều cao trước khi ghép tế bào gốc tạo máu HSCT; ở những bệnh nhân này, viêm niêm mạc thường khỏi đồng thời với việc hồi phục số lượng bạch cầu trung tính mặc dù mối liên hệ tạm thời này có thể không phải là nguyên nhân gây bệnh. Viêm niêm mạc miệng sau khi xạ trị giới hạn ở vị trí phát xạ. Các tổn thương thường gặp hơn ở niêm mạc không bị sừng hóa, nhưng có thể thấy ở các mô bị sừng hóa ví dụ như khẩu cái cứng, bề mặt lưng lưỡi nếu phát xạ liều cao trực tiếp chiếu xạ vào những vị trí này. Bệnh nhân được xạ trị 6000 đến 7000 cGy trong 6 đến 7 tuần tiến triển ban đỏ niêm mạc sau 1 đến 3 tuần, sau đó tiến triển thành viêm niêm mạc loét trong 3 đến 5 tuần. Mức độ nghiêm trọng của các tổn thương tăng theo liều thuốc sử dụng, và có thể mất 3 đến 10 tuần để chữa lành, tùy theo phạm vi và mức độ nghiêm trọng. Sốt có thể liên quan đến biểu hiện nhiễm trùng, hoặc có thể là do sốt giảm bạch cầu trung tính sau khi hóa trị liệu. Cần đánh giá nhanh chóng bất kỳ bệnh nhân nào có nhiệt độ đo được gần đây >38,3°C 101°F, hoặc ≥38°C 100,4°F trong vòng 1 giờ về sốt giảm bạch cầu trung tính, với nuôi cấy máu, để có thể nhanh chóng sử dụng thuốc kháng sinh. Loét niêm mạc miệng rõ ràng có thể là cửa ngõ xâm lấn hệ vi khuẩn trong miệng vào trong máu. Có thể thấy các tổn thương biến chứng từ nhiễm trùng do vi-rút hoặc nấm thứ phát, thỉnh thoảng ở các vị trí bất thường đối với viêm niêm mạc như niêm mạc bị sừng hóa khẩu cái cứng, lợi, lưng lưỡi, và có thể cho thấy lâu lành. Nhiễm trùng do vi-rút, thường là vi-rút herpes simplex HSV HSV, biểu hiện loét dạng mụn nước có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch cao như bệnh nhân được HSCT.[22] Nhiễm trùng do nấm thứ phát, thường do Candida albicans, nhưng cũng do các loài nấm candida khác C glabrata và C tropicalis gây ra, thường gặp ở bệnh nhân đang được chiếu xạ đầu và cổ, nhất là những người bị suy giảm chức năng nước bọt đáng kể.[23] Dễ dàng chẩn đoán lâm sàng hình thức nhiễm nấm miệng candida màng giả màu trắng. Nhiễm nấm Candida dạng ban đỏ dạng teo có thể biểu hiện là những tổn thương teo rất đỏ trên vòm miệng, như là các vùng loang lổ không có nhú hình chỉ trên lưng lưỡi, hoặc như các vùng đỏ lốm đốm trên niêm mạc má. Tiêu chí chẩn đoán Tiêu chí thuật ngữ thường gặp của Viện Ung Thư Quốc Gia về các biến cố bất lợi phiên bản Không có triệu chứng hoặc các triệu chứng nhẹ; không chỉ định can thiệp Đau vừa, không cản trở lượng nạp qua đường miệng Đau nặng, cản trở lượng nạp qua đường miệng Hậu quả đe dọa tính mạng; chỉ định can thiệp khẩn cấp Tử vong Các xét nghiệm trong phòng xét nghiệm Đối với hầu hết bệnh nhân, không cần thiết phải xét nghiệm đặc hiệu. Nếu biểu hiện gợi ý sốt giảm bạch cầu trung tính, cần chỉ định thực hiện công thức máu có đếm thành phần bạch cầu và nuôi cấy máu. Cần giải thích WBC và số lượng bạch cầu trung tính ANC kèm theo bất kỳ bệnh ác tính liên quan. Tuy nhiên, ANC 38,3°C 101°F, hoặc ≥38°C 100,4°F trong vòng 1 giờ về sốt giảm bạch cầu trung tính, với nuôi cấy máu, để có thể nhanh chóng sử dụng thuốc kháng sinh. Loét niêm mạc miệng rõ ràng có thể là cửa ngõ xâm lấn hệ vi khuẩn trong miệng vào trong máu. Xét nghiệm chẩn đoán Xét nghiệm thứ nhất cần yêu cầu Xét nghiệm Kết quả chẩn đoán lâm sàng • Thường không cần thực hiện xét nghiệm đặc điểm của viêm niêm mạc miệng Các xét nghiệm khác cần cân nhắc Xét nghiệm Kết quả Công thức máu và thành phần bạch cầu • Cần chỉ định ngay lập tức đối với bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ sốt giảm bạch cầu trung tính nhiệt độ hiện đo được là >38,3°C [101°F], hoặc ≥38°C [100,4°F] trong vòng 1 giờ. • Cần giải thích WBC và số lượng bạch cầu trung tính ANC kèm theo bất kỳ bệnh ác tính liên quan. Tuy nhiên, khi có sốt, ANC 38,3°C [101°F], hoặc ≥38°C [100,4°F] trong vòng 1 giờ, ANC 100; P A mutation in the dihydropyrimidine dehydrogenase gene of patients with severe 5-fluorouracil-associated toxicity. Pharmacogenetics. 2002;12555-558. Tóm lược 9. Lalla RV, Bowen J, Barasch A, et al. MASCC/ISOO clinical practice guidelines for the management of mucositis secondary to cancer therapy. Cancer. 2014;1201453-1461. Toàn văn Tóm lược 10. Peterson DE, Ohrn K, Bowen J, et al. Systematic review of oral cryotherapy for management of oral mucositis caused by cancer therapy. Support Care Cancer. 2013;21327-332. Tóm lược 11. Spielberger R, Stiff P, Bensinger W, et al. Palifermin for oral mucositis after intensive therapy for hematologic cancers. N Engl J Med. 2004;3512590-2598. Toàn văn Tóm lược 12. Cheng KK, Molassiotis A, Chang AM, et al. Evaluation of an oral care protocol intervention in the prevention of chemotherapy-induced oral mucositis in paediatric cancer patients. Eur J Cancer. 2001;372056-2063. Tóm lược 13. Levy-Polack MP, Sebelli P, Polack NL. Incidence of oral complications and application of a preventive protocol in children with acute leukemia. Spec Care Dentist. 1998;18189-193. Tóm lược 14. Borowski B, Benhamou E, Pico JL, et al. Prevention of oral mucositis in patients treated with high-dose chemotherapy and bone marrow transplantation a randomised controlled trial comparing two protocols of dental care. Eur J Cancer B Oral Oncol. 1994;30B93-97. Tóm lược 15. McGuire DB, Fulton JS, Park J, et al. Systematic review of basic oral care for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213165-3177. Tóm lược 16. Hensley ML, Hagerty KL, Kewalramani T, et al. American Society of Clinical Oncology 2008 clinical practice guideline update use of chemotherapy and radiation therapy protectants. J Clin Oncol. 2009;27127-145. Toàn văn Tóm lược 17. Migliorati C, Hewson I, Lalla RV, et al. Systematic review of laser and other light therapy for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;21333-341. Tóm lược 18. Lopes NN, Plapler H, Chavantes MC, et al. Cyclooxygenase-2 and vascular endothelial growth factor expression in 5-fluorouracil-induced oral mucositis in hamsters evaluation of two low-intensity laser protocols. Support Care Cancer. 2009;171409-1415. Tóm lược 19. Lopes NN, Plapler H, Lalla RV, et al. Effects of low-level laser therapy on collagen expression and neutrophil infiltrate in 5-fluorouracil-induced oral mucositis in hamsters. Lasers Surg Med. 2010;42546-552. Tóm lược 20. Nicolatou-Galitis O, Sarri T, Bowen J, et al. Systematic review of anti-inflammatory agents for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213179-3189. Tóm lược 21. Department of Health and Human Services. Common terminology criteria for adverse events CTCAE. June 2010. last accessed 10 November 2016. Toàn văn 22. Sullivan KM, Dykewicz CA, Longworth DL, et al. Preventing opportunistic infections after hematopoietic stem cell transplantation the Centers for Disease Control and Prevention, Infectious Diseases Society of America, and American Society for Blood and Marrow Transplantation Practice Guidelines and beyond. Hematology Am Soc Hematol Educ Program. 2001392-421. Toàn văn Tóm lược 23. Soysa NS, Samaranayake LP, Ellopola AN. Cytotoxic drugs, radiotherapy and oral candidiasis. Oral Oncol. 2004;40971-978. Tóm lược 24. Wald A, Huang ML, Carrell D, et al. Polymerase chain reaction for detection of herpes simplex virus HSV DNA on mucosal surfaces comparison with HSV isolation in cell culture. J Infect Dis. 2003;1881345-1351. Tóm lược 25. Saunders DP, Epstein JB, Elad S, et al. Systematic review of antimicrobials, mucosal coating agents, anesthetics, and analgesics for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;213191-3207. Tóm lược 26. Leenstra JL, Miller RC, Qin R, et al. Doxepin rinse versus placebo in the treatment of acute oral mucositis pain in patients receiving head and neck radiotherapy with or without chemotherapy a phase III, randomized, double-blind trial NCCTG-N09C6 [Alliance]. J Clin Oncol. 2014;321571-1577. Tóm lược 27. Raber-Durlacher JE, von Bültzingslöwen I, Logan RM, et al. Systematic review of cytokines and growth factors for the management of oral mucositis in cancer patients. Support Care Cancer. 2013;21343-355. Tóm lược 28. Riley P, Glenny AM, Worthington HV, et al. Interventions for preventing oral mucositis in patients with cancer receiving treatment cytokines and growth factors. Cochrane Database Syst Rev. 2017 Nov 28;11CD011990. Tóm lược 29. Riley P, Glenny AM, Worthington HV, et al. Interventions for preventing oral mucositis in patients with cancer receiving treatment oral cryotherapy. Cochrane Database Syst Rev. 2015;12CD011552. Toàn văn Tóm lược 30. Spielberger R, Emmanouilides C, Stiff P, et al. Use of recombinant human keratinocyte growth factor rHuKGF can reduce severe oral mucositis in patients pts with hematologic malignancies undergoing autologous peripheral blood progenitor cell transplantation auto-PBPCT after radiation-based conditioning – results of a phase 3 trial. Proc Am Soc Clin Oncol. 2003;22abstr 3642. 31. Lalla RV, Peterson DE. Treatment of mucositis, including new medications. Cancer J. 2006;12348-354. Tóm lược 32. Rugo H, Seneviratne L, Beck J, et al. Prevention of everolimus/exemestane EVE/EXE stomatitis in postmenopausal PM women with hormone receptor-positive HR+ metastatic breast cancer MBC using a dexamethasone-based mouthwash MW results of the SWISH trial. 2016 ASCO Annual Meeting;abstract 525. J Clin Oncol. 2016;34525. Toàn văn 33. Elting LS, Keefe DM, Sonis ST, et al. Patient-reported measurements of oral mucositis in head and neck cancer patients treated with radiotherapy with or without chemotherapy demonstration of increased frequency, severity, resistance to palliation, and impact on quality of life. Cancer. 2008;1132704-2713. Tóm lược 34. Al-Dasooqi N, Sonis ST, Bowen JM, et al. Emerging evidence on the pathobiology of mucositis. Support Care Cancer. 2013;213233-3241. Tóm lược 35. Sonis ST. New thoughts on the initiation of mucositis. Oral Dis. 2010;16597-600. Tóm lược 36. Van Kuilenburg AB, Meinsma R, Zoetekouw L, et al. High prevalence of the IVS14 + 1G>A mutation in the dihydropyrimidine dehydrogenase gene of patients with severe 5-fluorouracil-associated toxicity. Pharmacogenetics. 2002;12555-558. Tóm lược 37. Lalla RV, Bowen J, Barasch A, et al. MASCC/ISOO clinical practice guidelines for the management of mucositis secondary to cancer therapy. Cancer. 2014;1201453-1461. Toàn văn Tóm lược 38. Peterson DE, Ohrn K, Bowen J, et al. Systematic review of oral cryotherapy for management of oral mucositis caused by cancer therapy. Support Care Cancer. 2013;21327-332. Tóm lược 39. Spielberger R, Stiff P, Bensinger W, et al. Palifermin for oral mucositis after intensive therapy for hematologic cancers. N Engl J Med. 2004;3512590-2598. Toàn văn Tóm lược 40. Cheng KK, Molassiotis A, Chang AM, et al. Evaluation of an oral care protocol intervention in the prevention of chemotherapy-induced oral mucositis in paediatric cancer patients. Eur J Cancer. 2001;372056-2063. Tóm lược 41. Levy-Polack MP, Sebelli P, Polack NL. Incidence of oral complications and application of a preventive protocol in children with acute leukemia. Spec Care Dentist. 1998;18189-193. Tóm lược 42. Borowski B, Benhamou E, Pico JL, et al. Prevention of oral mucositis in patients treated with high-dose chemotherapy and bone marrow transplantation a randomised controlled trial comparing two protocols of dental care. Eur J Cancer B Oral Oncol. 1994;30B93-97. Tóm lược Tuyên bố miễn trách nhiệm bên ngoài Hoa Kỳ và Canada. BMJ Publishing Group Ltd ”BMJ Group” nỗ lực để đảm bảo rằng các thông tin được cung cấp là chính xác và cập nhật, nhưng chúng tôi và cả những người cấp giấy phép của chúng tôi, là những người cung cấp các nội dung nhất định có liên kết với nội dung của chúng tôi hoặc có thể truy cập được từ nội dung của chúng tôi, đều không đảm bảo điều đó. BMJ Group không ủng hộ hay xác nhận việc sử dụng bất kỳ loại thuốc hay trị liệu nào trong đó và BMJ Group cũng không thực hiện chẩn đoán cho các bệnh nhân. Các chuyên gia y tế cần sử dụng những cân nhắc chuyên môn của mình trong việc sử dụng thông tin này và chăm sóc cho bệnh nhân của họ và thông tin trong này không được coi là sự thay thế cho việc đó. các phương pháp chẩn đoán, điều trị, liên lạc theo dõi, thuốc và bất kỳ chống chỉ định hay phản ứng phụ nào. Ngoài ra, các tiêu chuẩn và thực hành y khoa đó thay đổi khi có thêm số liệu, và quý vị nên tham khảo nhiều nguồn khác nhau. Chúng tôi đặc biệt khuyến nghị người dùng nên xác minh độc lập các chẩn đoán, điều trị và theo dõi liên lạc được đưa ra, đồng thời đảm bảo rằng thông tin đó là phù hợp cho bệnh nhân trong khu vực của quý vị. Ngoài ra, liên quan đến thuốc kê toa, chúng tôi khuyên quý vị nên kiểm tra trang thông tin sản phẩm kèm theo mỗi loại thuốc để xác minh các điều kiện sử dụng và xác định bất kỳ thay đổi nào về liều dùng hay chống chỉ định, đặc biệt là nếu dược chất được cho sử dụng là loại mới, ít được sử dụng, hay có khoảng trị liệu hẹp. Quý vị phải luôn luôn kiểm tra rằng các loại thuốc được dẫn chiếu có giấy phép để sử dụng cho mục đích được nêu và trên cơ sở được cung cấp trong tình trạng “hiện có” như được nêu, và trong phạm vi đầy đủ được pháp luật cho phép BMJ Group và những người cấp giấy phép của mình không chịu bất kỳ trách nhiệm nào cho bất kỳ khía cạnh chăm sóc sức khỏe nào được cung cấp với sự hỗ trợ của thông tin này hay việc sử dụng nào khác của thông tin này.
I. ĐẠI CƯƠNG Khe hở vòm khẩu cái là bệnh lý bẩm sinh ở trẻ em, bệnh thể hiện bằng sự mất liên tục cấu trúc giải phẫu của vòm khẩu cái. II. PHÂN LOẠI Có nhiều cách phân loại khe hở vòm khẩu, cơ sở phân loại thường dựa vào giải phẫu học và phôi thai học. Sau đây là một số cách phổ biến. 1. Phân loại theo Veau Có 4 mức độ khe hở vòm khẩu khác nhau đi từ nhẹ đến phức tạp là khe hở vòm mềm, khe hở vòm mềm và cứng, khe hở vòm toàn bộ một bên, khe hở vòm toàn bộ hai bên. Hạn chế của phân loại này không chú ý đến khe hở môi và xương ổ toàn bộ, tuy vậy vẫn được sử dụng phổ biến đến ngày nay. Hình 1. Phân loại khe hở vòm theo Veau a. Khe hở vòm mềm. b. Khe hở vòm mềm và cứng. c. Khe hở vòm toàn bộ một bên. d. Khe hở vòm toàn bộ hai bên. 2. Phân loại theo Kernahan và Stark, tác giả dùng lỗ cửa của vòm khẩu như là một điểm mốc ranh giới để phân biệt khe hở vòm khẩu nguyên phát và thứ phát. • Khe hở môi và tiền hàm, nằm ở phía trước lỗ cửa, xuất hiện vào khoảng tuần thứ 4 đến thứ 7 trong phôi thai được gọi là khe hở vòm khẩu nguyên phát. • Khe hở vòm khẩu cứng và vòm khẩu mềm nằm về phía sau lỗ cửa, xuất hiện từ tuần thứ 7 đến 12 được gọi là khe hở vòm khẩu thứ phát. Hạn chế của phân loại này là không mô tả được là khe hở ở bên phải hay trái và không quan tâm đến sự phân loại của môi. Về phẫu thuật, có khá nhiều phương pháp phẫu thuât tạo hình vòm như Veau, Furlow, Trong đó phương pháp Push-Back tương đối phổ biến nhất. III. THỜI ĐIỂM PHẪU THUẬT • Về tuổi từ 12 đến 18 tháng tuổi. • Trọng lượng cơ thể Cân nặng tối thiểu của bé là 10 kg. IV. CHUẨN BỊ TIỀN PHẪU • Khám Tai mũi họng và Hô hấp trước mổ. • Tiến hành các xét nghiệm tiền phẫu cơ bản Huyết đồ, nước tiểu. Đặc biệt chú ý đến định lượng Hemoglobin Hb trong máu, Hb không được nhỏ hơn 10 mg/ml, nếu thấp quá dễ gây chảy máu sau mổ và chậm lành thương. • Hướng dẫn thân nhân bệnh nhân cách chăm sóc và nuôi ăn trước mổ và sau mổ. V. KHÁNG SINH DỰ PHÒNG • Đối với trẻ bình thường, phẫu thuật vòm là phẫu thuật thuộc loại sạch không cần thiết dùng kháng sinh dự phòng. • Nếu trẻ có bệnh tim bẩm sinh đi kèm phải dùng kháng sinh dự phòng trước mổ. VI. GÂY MÊ Phẫu thuật vòm phải được tiến hành dưới gây mê nội khí quản. Nên dùng ống nội khí quản cong và cứng để tránh bị gập góc gây nghẽn tắc thông khí trong lúc phẫu thuật. VII. TIÊU CHUẨN PHẢI ĐẠT ĐƯỢC KHI TẠO HÌNH KHE HỞ VÒM KHẨU CÁI Phẫu thuật khe hở vòm nhằm mục đích phục hồi các chức năng giải phẫu và sinh lý của hệ thống vòm hầu. Để đạt được yêu cầu đó Phẫu thuật viên cần nắm vững các tiêu chuẩn sau 1. Tiêu chuẩn chính • Đóng kín khe hở thông thương giữa mũi và miệng. • Đẩy lùi được vòm khẩu cái ra sau. • Thu hẹp eo họng. 2. Tiêu chuẩn phụ • Các cơ khẩu cái được đưa về đúng hướng và đúng vị trí giải phẫu. • Tránh quá căng vết mổ. • Tránh gây nghẽn tắc đường thở. • Tránh tổn thương bó mạch thần kinh khẩu cái. • Hạn chế tối đa lượng máu mất. VIII. CÁC GIAI ĐOẠN PHẪU THUẬT THEO PHƯỚNG PHÁP PUSH-BACK Có 6 giai đoạn để hoàn tất một ca phẫu thuật khe hở vòm theo phương pháp Push-Back. 1. Giai đoạn 1 chuẩn bị bệnh nhân • Đặt bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa, đầu gần về phía đầu bàn mổ. Đặt gối vòng cố định đầu. Để phẫu thuật viên dễ nhìn thấy khẩu cái nên hạ đầu bệnh nhân ở vị trí thấp, có gối kê ngang vai để vươn rộng cổ. Hình 2. Trải khăn mổ và đặt cung mở miệng Dingman • Sát khuẩn vùng mổ bằng Betadin hoặc Zephiran. • Dùng một khăn mổ lớn phủ nửa thân người từ cổ xuống chân. Phủ đầu bằng khăn mổ có lỗ, chừa trống toàn bộ mặt. • Đặt cung mở miệng Dingman, chú ý chọn thanh đè lưỡi có kích thước phù hợp. • Đặt gạc vào vị trí sau hầu để ngăn máu và dịch chảy vào khí quản. Để đề phòng việc bỏ sót gạc sau mổ nên cố định gạc bằng chỉ silk có một đầu kéo dài ra ngoài miệng và cố định vào lò xo cung mở miệng. • Chích thuốc hỗ trợ cầm máu Transamin 5 ml, 1 ống/10kg. 2. Giai đoạn 2 đánh dấu, đo và vẽ đường mổ • Lau khô niêm mạc khẩu cái. • Dùng bút vẽ phẫu thuật hoặc tăm vẽ chấm Blue Methylen để đánh dấu đường mổ bằng các điểm chấm hoặc các đường ngắt quãng. • Đánh dấu dọc theo đường nối tự nhiên của niêm mạc khẩu cái và niêm mạc xương ổ răng, đi từ trước ra sau, thường cách bờ viền nướu khoảng từ 1 - 1,5 mm. • Tiếp tục đánh dấu đường vòng quanh lồi củ xương hàm trên và kéo dài ra sau dọc theo rãnh má-khẩu cái. • Đánh dấu dọc theo hai bờ khe hở đi từ lưỡi gà bên này đến lưỡi gà bên đối diện, đường vẽ nên cách đường nối niêm mạc mũi và niêm mạc khẩu cái khoảng 1 mm. 3. Giai đoạn 3 tiêm thấm Dùng ống tiêm nha khoa và dung dịch Lidocain + Epinephrin chứa sẵn trong ống vỏ đạn. • Khởi đầu tiêm ở vị trí gốc lưỡi gà, tiêm đối xứng hai bên, tránh tiêm quá nhiều hay quá mạnh làm biến dạng lưỡi gà. • Tiêm vào vùng khẩu cái mềm,chú ý vùng rãnh má - khẩu cái. • Tiêm vùng khẩu cái cứng, lúc này phần vát của mũi kim nên áp vào mặt xương, tiêm với áp lực mạnh để tia thuốc có thể tách bóc niêm mạc khẩu cái cứng ra khỏi mặt xuơng. Nếu lượng thuốc tê được dùng đã đạt mức tối đa có thể tiêm thêm nước muối sinh lý để tăng hiệu quả tách bóc. • Tiêm vào vùng niêm mạc xương lá mía nếu cần thiết. • Sau khi kết thúc việc tiêm phải chờ trong 7 phút để thuốc co mạch phát huy tối đa hiệu quả chống chảy máu. 4. Giai đoạn 4 rạch cắt và tách bóc a. Vùng lưỡi gà dùng kéo cắt xén, hoặc dùng dao rạch dọc theo hai bờ phía trong của lưỡi gà. b. Tạo vạt khẩu cái • Dùng dao 15, rạch theo đường vẽ bắt đầu từ gốc lưỡi gà, kéo dài về phía khẩu cái mềm, niêm mạc khẩu cái cứng và tiến về phía niêm mạc răng cửa trên. • Từ niêm mạc răng cửa trên rạch đường hơi cong theo rãnh tự nhiên giữa niêm mạc khẩu cái và niêm mạc xương ổ răng tiến dần về phía sau, vòng qua lồi củ hàm trên và kết thúc bằng đường giảm căng dọc rãnh má - khẩu cái. Chú ý, cần rạch niêm mạc khẩu cái cứng với lực nén dao hơi mạnh để có thể cắt đứt được lớp màng xương khẩu cái cứng. • Dùng kéo và cây tách bóc hình muỗng tiến hành tách bóc niêm mạc khẩu cái cứng từ trước ra sau. Ở khẩu cái mềm, tách bóc bộc lộ các đầu tự do của cơ căng màn khẩu và cơ nâng màn khẩu • Tách bóc phần sợi xơ của cơ căng màn khẩu bám vào mấu chân bướm. • Tách bóc thật tỷ mỷ vùng bó mạch - thần kinh khẩu cái để có thể dễ dàng di chuyển vạt vào phía đường giữa. Chú ý bảo vệ an toàn cho bó mạch - thần kinh khẩu cái tránh gây quá căng, đứt hoặc thủng sẽ ảnh hưởng đến khả năng nuôi sống vạt và sự lành thương sau này. • Đốt cầm máu thật kỹ ở vị trí các mặt cắt và đầu các mạch xiên. Hình 3. Các giai đoạn phẫu thuật khe hở vòm A. Đường vẽ; B. Rạch cắt và tách bóc vạt; C. Khâu đóng khe hở c. Tạo vạt niêm mạc mũi • Tách bóc niêm mạc mũi bằng cây tách bóc đầu ngang. Khởi đầu tách bóc các gân cơ bám vào bờ sau của xương khẩu cái và tách dần về phía răng cửa trên. • Niêm mạc mũi rất mỏng, dễ thủng, do đó cẩn thận tách bóc từng phần nhỏ. • Tách bóc kỹ niêm mạc mũi sẽ làm tăng khả năng “đẩy lùi” khẩu cái về phía thành hầu. d. Tạo vạt xương lá mía • Vạt xương lá mía được sử dụng khi vạt nền mũi không đủ diện tích để đóng kín khe hở. • Rạch dọc theo đường giữa của vách xương lá mía, đi từ phía sau ra trước, điểm dừng của đường rạch là nơi hai vạt niêm mạc mũi khâu dính vào nhau ở mũi khâu sau cùng. • Tách bóc vạt xương lá mía theo hai hướng về phía bờ của niêm mạc mũi. Tách vừa đủ, không tách quá rộng dễ gây chảy máu. Hạn chế chảy máu trong lúc mổ để hạn chế chảy máu trong lúc mổ • Chờ đủ thời gian thuốc co mạch tác dụng. • Tránh làm tổn thương các mạch máu. • Tránh gây dập nát hay làm rách mô khi tách bóc. 5. Giai đoạn 5 khâu đóng vùng mổ Tùy vị trí vùng mổ mà chọn kỹ thuật khâu. Có thể khâu mũi Donati, mũi chữ U, khâu vắt, khâu mũi rời. Dùng chỉ Vicryl 5-0 khâu lưỡi gà, các vị trí còn lại dùng chỉ 4-0. • Khâu đóng lưỡi gà, khâu ngược. Sau đó dùng chỉ kéo căng lưỡi gà và định vị vào khung mở miệng. • Khâu đóng niêm mạc nền mũi, khâu đóng hai vạt của niêm mạc mũi lại với nhau, hoặc khâu đóng hai bờ của niêm mạc mũi với niêm mạc xương lá mía. • Khâu kết nối các đầu cơ ở hai bờ khe hở. Chú ý khâu đúng vị trí của hai đầu cơ, khâu bằng mũi Donati. • Khâu đóng niêm mạc khẩu cái. 6. Giai đoạn 6 hoàn tất ca mổ • Hút sạch dịch và máu. • Kiểm tra kỹ để phát hiện các điểm chảy máu, nếu có thực hiện đốt cầm máu. • Đặt Surgicel hoặc Spongel vào khoảng trống dọc theo cung răng và đường giảm căng. • Khâu cố định vạt. • Lấy gạc ra khỏi miệng bệnh nhân. IX. BIẾN CHỨNG SAU MỔ 1. Chảy máu sau mổ Là biến chứng thường gặp nhất và cũng là nguy hiểm nhất đối với bệnh nhân phẫu thuật vòm. Thống kê cho thấy tỷ lệ ca chảy máu sau vá vòm chiếm khoảng 5%. Chảy máu sau PT vòm dễ đưa đến nghẽn tắc đường thở và suy kiệt. Về xử trí, đặt trẻ nằm nghiêng để máu chảy ra khỏi miệng, hút sạch máu và tìm vị trí chảy máu. Dùng gạc tẩm Oxy già hoặc tẩm Adrenalin đặt vào điểm chảy máu. Với trẻ lớn hướng dẫn trẻ cắn chặt gạc, với trẻ nhỏ nên dùng tay ấn gạc ngay vị trí chảy máu. Nếu biện pháp trên không thành công, chuyển bé vào phòng mổ để xử trí tiếp theo. Cần chú ý là phải hút sạch máu trong miệng trước khi đặt ống nội khí quản để tránh việc đẩy máu đông vào trong phổi. 2. Nghẽn tắc đường thở Các nguyên nhân có thể gây nghẽn tắc đường thở dịch tiết, máu, sót gạc, phù nề lưỡi và sàn miệng, dị dạng đường thở phì đại Amidal,... 3. Trật khớp cổ số 3, 4 Do thực hiện sai tư thế khi di chuyển phần đầu của bệnh nhân, cần nắn chỉnh lại ngay để tránh gây chèn ép tủy sống cổ có thể dẫn đến tử vong. 4. Toác, hở vết mổ Do khá nhiều nguyên nhân, do đứt hoặc sút chỉ, do đường mổ quá căng, do mô mổ, do bệnh nhân bị nhiễm trùng đường hô hấp, do tổn thương mạch máu nuôi vạt. Nếu hở vết mổ xảy ra trong 24 giờ đầu, đưa bệnh nhân vào phòng mổ xử trí. Nếu muộn hơn, việc xử trí tùy thuộc mức độ toác hở và kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Việc xử trí các di chứng của hở vết mổ nên tiến hành sau 6 tháng đến 1 năm. 5. Nhiễm trùng sau mổ Dùng kháng sinh toàn thân thích hợp, vệ sinh răng miệng tốt. Nếu có mô hoại tử, cần được làm sạch để mô hạt mới phát triển tốt hơn. x. CHĂM SÓC SAU MỔ • Chế độ ăn uống sau mổ - Khi trẻ tỉnh táo hoàn toàn cho uống nước chín để nguội, sau đó cho uống sữa, nước cháo, nước trái cây. Chú ý không dùng sữa có màu hồng dâu, hoặc nâu chocolate để phân biệt trong trường hợp chảy máu. - Ngày hôm sau cho trẻ ăn cháo, súp, sữa..., kéo dài đến hết tuần lễ thứ hai. - Từ tuần lễ thứ ba đến hết tuần lễ thứ tư cho trẻ ăn thức ăn mềm như cơm nấu nhão. Chú ý với trẻ còn bú mẹ hoặc bú bình. Trong 2 tuần đầu sau mổ, tạm ngừng bú bình, đổ sữa bằng muỗng; tạm ngừng bú mẹ, vắt lấy sữa mẹ và đút bằng muỗng. • Kháng sinh phổ rộng, theo đường tĩnh mạch, trung bình dùng trong 3 ngày sau mổ. • Giảm đau sau mổ Paracetomol theo đường uống, hoặc đường hậu môn nếu trẻ quá nhỏ. Không dùng giảm đau có ức chế hô hấp như Codein. • Vệ sinh vùng mổ. XI. QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ TIẾP THEO Sau khi hoàn thành việc đóng kín khe hở vòm, tùy thuộc vào mức độ của từng loại khe hở vòm mà sẽ có một hoặc nhiều bước điều trị tiếp theo cho bệnh nhân • Hướng dẫn tập phát âm, tập nói. • Chỉnh hình răng. • Phẫu thuật ghép xương ổ răng. • Phẫu thuật điều chỉnh xương hàm.
Khẩu cái mềm From Wikipedia, the free encyclopedia Khẩu cái mềm là mô mềm cấu thành phía sau vòm miệng ở lớp Thú. Khẩu cái mềm là một phần của vòm miệng; phần còn lại là vòm miệng cứng. Khẩu cái mềm được phân biệt với vòm miệng cứng nằm phía trước miệng ở chỗ nó không chứa xương. Quick facts Khẩu cái mềm, Chi tiết, Động mạch, Dây thần k... ▼ Khẩu cái mềmHệ hô hấp trên, với khẩu cái mềm nằm gần trung tiếtĐộng mạchlesser palatine arteries, ascending palatine arteryDây thần kinhpharyngeal branch of vagus nerve, medial pterygoid nerve, lesser palatine nerves, glossopharyngeal nerve[1]Định danhLatinhRonalum molle, velum ngữ giải phẫu[Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata]
Trang chủ Khám bệnh online Răng Hàm Mặt Câu hỏi Bác sĩ cho em hỏi là ở phần khẩu cái mềm em dùng lưỡi chạm vào có nhiều hạt li ti là bị sao ạ? ZL Thế Anh Trả lời Ảnh bạn đọc cung cấp Chào bạn, Theo hình ảnh cung cấp thì tổn thương ở niêm mạc miệng chủ yếu là viêm, thường gặp do nguyên nhân nhiễm siêu vi. Bệnh thông thường không cần điều trị, có thể tự khỏi sau 7-10 ngày. Bạn cũng có thể dùng các thuốc bôi trị áp-tơ miệng khi đau rát nhiều. Nếu kéo dài hơn hoặc có biểu hiện tăng kích thước, thay đổi hình dạng, nên sắp xếp khám bác sĩ Răng Hàm Mặt bạn nhé! Thân mến! Câu hỏi liên quan 17 tuổi dương vật chưa phát triển, có nên dùng testosterone? Các triệu chứng thường gặp sau khi rút ống JJ? Đau bụng kèm buồn nôn sau 3 ngày uống thuốc điều trị Hp Bài viết có hữu ích với bạn? Có thể bạn quan tâm Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình ©2010 - 2023 bởi Công ty Cổ phần Truyền Thông Hạnh Phúc Thông tin trên trang mang tính chất tham khảo, vui lòng không tự ý áp dụng, nếu không có sự đồng ý của bác sĩ điều trị.
viêm khẩu cái mềm