Ảnh động thứ tự từng nét viết của chữ Hán Ảnh tĩnh thứ tự từng nét viết của chữ Hán Thông tin cơ bản về chữ Hán đó bao gồm: âm đọc, bộ thủ, tổng các nét, các loại mã hóa khi viết, các chữ đồng âm khác nghĩa, các chữ có cùng bộ thủ, … Tuy nhiên, trang web không hỗ trợ phần nghĩa Tiếng Việt cho bạn. Những người Việt Nam đầu tiên sử dụng thành thạo chữ Hán là một vài trí thức được Hán hóa triệt để. Đó là trường hợp Lí Tiến 李 進, Lí Cầm 李 琴, Trương Trọng 張 重 (thế kỉ II). Sau đó, một vài người trong những trí thức này làm thơ và phú bằng chữ Hán theo lối Trung Quốc. Những nghệ nhân đã biểu đạt hình thức chữ Việt (với các mẫu tự Latinh) theo các khối hình tròn hoặc vuông của chữ Hán hoặc kiểu chữ viết "ngược" chỉ đọc được dễ dàng khi nhìn phía sau trang giấy. Hướng thứ hai, biểu đạt hình thức chữ Việt theo dạng chữ viết vốn có nguồn gốc từ Phương Tây dùng cho hệ thống mẫu tự Latinh. 1.Giới thiệu chung Tên sách: Tập viết chữ Hán (theo giáo trình Hán ngữ Boya sơ cấp 1) Chủ biên: Đinh Bích Thảo, Nguyễn Thị Thanh Lan Nhà xuất bản: NXB Hồng Đức Số trang: 170 trang Giá bìa: 75.000VNĐ 2. Tập viết chữ Hán (theo giáo trình Hán ngữ Boya sơ cấp 1) có Ở Việt Nam, từ thế kỷ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã nhận ra sự cần thiết phảỉ giải thích các từ ngữ Phật giáo. Trong Kiến văn tiểu lục (phần Thiền dật), ông đã kể lại câu chuyện sau: "Vương Kinh Công (tức Vương An Thạch) nhà Tống, chú giải kinh Kim cương [IMG] [IMG] [IMG] [IMG] [IMG] [IMG] [IMG] Văn Pháp Chữ Hán (cổ hán văn) - Phạm Tất Đắc | Nhà xuất bản khoa học xã hội 1996 1124 trang. Diễn đàn tài liệu - Tài liệu số cho mọi người. Trang Xuất bản sách văn học ở Việt Nam - 03/05/2018; vqkzql. Năm 2019 vừa qua, trong lĩnh vực văn hóa tại Việt Nam, một hiện tượng đáng chú ý là có nhiều hoạt động xoay quanh dịp kỷ niệm 100 năm kỳ thi chữ Hán cuối cùng. Kỷ niệm 100 năm để trở lại với di sản gần năm Nho học 1. Nhưng dịp kỷ niệm này cũng là cơ hội để soi tỏ một giai đoạn tương đối ngắn mới đây, tuy được coi là quyết định đối với sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, song trên thực tế còn rất ít được nghiên cứu. Khoa thi năm Kỷ Mùi 1919 là khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt Nam. Lý do chấm dứt được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ trình của bộ Học như sau ''Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt'' sách Khải Định chính yếu sơ tập .... Quyết định bỏ thi chữ Hán năm 1919 của triều đình Việt Nam có phải là cơ hội để chữ Quốc ngữ lên ngôi? Mời nghe Tạp chí Xã hội "Quốc ngữ lên ngôi và khoa cử Hán học" Khoa cử Nho học chấm dứt nhường chỗ tự nhiên cho sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, về mặt lô-gic hình thức thông thường, đó là điều dễ chấp nhận. Thế nhưng trên thực tế, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ diễn ra như thế nào so với quyết định đặt dấu chấm hết này đối với khoa cử Nho học? Đây là chủ đề đã được thảo luận khá rộng rãi trong năm vừa qua tại Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ trên thực tế đã diễn ra từ sớm, trước rất nhiều so với quyết định của vua Khải Định bỏ hoàn toàn thi cử Hán học năm 1919. 1915 Hồi trống báo ''chợ văn-chương'' sắp tànSau đây là nhận định của nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng, Hội Ngôn Ngữ Học thành phố Hồ Chí Minh, với RFI tiếng Việt ''Tôi hoàn toàn đồng ý là đây là một cơ hội, một cái dịp để cho người ta nhìn lại. Chữ Quốc ngữ như một dòng sông, nó có khởi đầu, và trên dòng chảy của nó chúng ta cắt ra 100 năm để chúng ta kỷ niệm, thì cái đó có những lý do khách quan. … Tại sao lại chọn cái đạo dụ của ông Khải Định, một ông vua mà lịch sử đánh giá rất là tệ hại ? Trong lời nói đầu của ông chủ tịch Hội ngôn ngữ học thành phố Hồ Chí Minh, để mở đầu cho hội thảo ngày 21/12 vừa rồi 2, tôi cho nói như vậy là đầy đủ, ông ấy nói thế này Ta biết rằng chữ Quốc ngữ ở miền Nam sử dụng trước, sau đó lan dần ra cả nước. Và năm 1915, ở miền Bắc đã bãi bỏ thi Hương rồi. Ông Phạm Quỳnh nói đó là ''hồi trống sau cùng đã báo từ nay chợ văn-chương không họp nữa. Ai còn gồng nặng, gánh nhẹ mà quẩy về xoay nghề khác''. Thực ra nói như thế là đúng, vì phải đến ba năm sau, tức 1918, khi Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử Nho học. Và năm 1919, khoa thi Hán học cuối cùng được tổ chức ở miền Trung, thì ''thần Cử-nghiệp'' đến đấy mới chính thức chia tay. Ta biết rằng trên sân khấu có hai nhân vật, một là chữ Nho, hai là chữ Quốc ngữ. Mà nhân vật chữ Nho bị đạo diễn cho đi xuống khỏi sân khấu rồi, thì chữ Quốc ngữ trở nên một mình một ngựa. Nếu không kể tiếng Pháp''. Hơn một thập niên cải cáchNhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến giai đoạn cải cách giáo dục, kéo dài hơn một thập niên, nhằm thay thế dần dần nền khoa cử lâu đời bằng nền giáo dục mới, với chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Một chủ đề hiện còn rất ít được nghiên cứu và gần như không được công chúng đông đảo biết đến. Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng ''Không phải là cái đạo dụ chính thức của Khải Định là một cái gì đó ghi nhận công lao của Khải Định đối với văn hóa Việt Nam. Tại sao nói như vậy ? Vì vua Khải Định chẳng qua là thực hiện một chính sách của người Pháp thời đó. Sau khi người Pháp chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ, thì họ đã có một chương trình cải cách giáo dục trong 10 năm, do ông toàn quyền Antony Klobukowski khởi xướng, rồi đến Albert Sarraut hoàn thành, để xóa bỏ dần nhà trường Hán học, bằng cách là trong các kỳ thi Hán học thi Hương, thi Hội, thi Đình, họ đã xen cài chữ Quốc ngữ. Rồi cho đến lúc quen dần, thì 10 năm sau họ mới chính thức bãi bỏ bằng đạo dụ của Khải Định. Tôi nói rằng, theo cách nói của người Pháp, đấy là dấu chấm trên chữ i thôi, để kết thúc về mặt kỹ thuật, một tiến trình do chính người Pháp chủ trương, chứ không phải chủ trương của ông Khải Định''. Cho đến nay, vai trò của những người có công đầu tiên trong việc chế tác chữ Quốc ngữ, như Francisco de Pina hay Alexandre de Rhodes đang ngày càng được công nhận trong xã hội Việt Nam, bất chấp một số phản đối ồn ào mới đây chống lại việc đặt tên đường Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng. Tri ân công lao của những người đóng góp cho văn hóa Việt Nam, dù là người trong hay ngoài nước, là câu chuyện ngày càng trở nên một lẽ dĩ nhiên. Tâm lý ức chếThế nhưng vấn đề chữ Quốc ngữ trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX dường như vẫn là một câu chuyện ít nhiều vẫn còn được coi là nhạy cảm, có lẽ do bởi gắn liền trực tiếp với giai đoạn thực dân. Và đây có thể là một trong những lý do chính tạo không khí ức chế trong tâm lý của không ít nhà nghiên cứu, giới quan tâm – nguồn gốc sâu xa của việc hầu như rất hiếm công trình nghiên cứu đáng kể nào về sự phát triển của chữ Quốc ngữ giai đoạn bản lề này. Và đây dường như cũng là một lĩnh vực không mấy thu hút các nhà nghiên cứu trẻ. Tâm lý ức chế khá phổ biến này được nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy Hà Nội thuật lại với RFI tiếng Việt. Theo ông, các nhà nho cải cách Việt Nam đầu thế kỷ XX đã ''đành phải chấp nhận'' chữ Quốc ngữ như một chuyện đã rồi, không có cách nào khác, nếu muốn dân tộc đi lên, thì phải chấp nhận nó. Bởi vì chữ Hán tắc đường rồi, và chấp nhận chữ Quốc ngữ thì còn hơn là chấp nhận tiếng Pháp. ''Cái khôn'' của các cụ là ở chỗ ấy, nhưng là cái khôn ngoan trong tình thế bị áp đặt, trong sự đã rồi. Nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cũng ghi nhận một thực tế là những người đứng đầu nhà nước quân chủ Nho giáo Việt Nam đã không tỉnh táo nghĩ đến việc mở đường cho chữ Quốc ngữ Latinh trở thành chữ viết quốc gia – trong thời kỳ còn kiểm soát toàn bộ hoặc một phần đất nước. Trang Lời Tựa của cuốn truyện ngắn ''Thầy Lazaro Phiền'' của nhà văn Công Giáo Nguyễn Trọng Quản, ấn hành năm 1887. RFI/Viet Áp đặt hay dung hòa?Chữ Quốc ngữ dần dần trở thành chữ viết chính thức ở Việt Nam có phải đơn thuần do người Pháp áp đặt hay không là một chủ đề còn để ngỏ. Nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đặc biệt chú ý đến những mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền thực dân Pháp trong việc khuyến khích hay không chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này ''Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ít người chú ý là thực ra việc phổ biến chữ Quốc ngữ ngay cả người Pháp là một chủ trương không dễ dàng. Họ phải đấu tranh nội bộ. Tôi đưa một dẫn chứng. Etienne Aymonier, một người biết nói tiếng Khmer, biết nói tiếng Việt, rồi ông lấy vợ người Chăm. Ông là tác giả của cuốn sách ngữ pháp tiếng Chăm, từ điển Chăm – Pháp. Về mặt chính quyền, ông đã từng làm đến công sứ Bình Thuận, ông đã từng làm hiệu trưởng đầu tiên của trường Hậu Bổ. Aymonier đã hai lần công khai viết rằng việc phổ biến chữ Quốc ngữ là nguy hiểm cho người Pháp 3. Cách tốt nhất với người Pháp là biến người Việt trở thành một người Pháp gốc Á, tức là dạy tiếng Pháp cho người Việt. Trong nội bộ họ có những cuộc tranh luận rất là gay gắt. Và cuối cùng như ta đã biết là chủ trương phổ biến chữ Quốc ngữ thắng thế. Ý kiến của Aymonier bị gạt đi. Tôi chỉ nhắc lại một chút về lịch sử như thế để thấy rằng việc phổ biến chữ Quốc ngữ ở những năm này là vấn đề không dễ dàng''. Từ Hà Nội, nhà nghiên cứu Hồ Hải Thụy cho biết thêm là, trên thực tế, việc thừa nhận chữ Quốc ngữ có thể coi là một ''biện pháp dung hòa'' tốt nhất trong giai đoạn lịch sử này, khi chính quyền thực dân Pháp đã ra nhiều bài học kinh nghiệm từ những nơi khác, trong đó có việc thực dân Anh ở Ấn Độ, tuy thống trị tiểu lục địa này từ lâu, nhưng đã không thể áp đặt được tiếng Anh, đồng hóa được nền văn hóa Ấn Độ. Theo hướng nhìn nhận này, thì giải pháp thừa nhận chữ Quốc ngữ chính là một sự thỏa hiệp giữa quyền lực thống trị thực dân với xã hội bản Quốc ngữ là ''hồn trong nước''Vẫn về bước ngoặt đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đặc biệt lưu ý đến sự thức tỉnh bất ngờ của giới nhà nho cấp tiến. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, đã nhận ra trong chữ Quốc ngữ, đến từ trời Tây, một phương tiện gây lại ''hồn nước'' ''Thái độ đối với chữ Quốc ngữ của nhà nho đương nhiên là phân hóa theo nhiều xu hướng. Xu hướng những nhà nho cấp tiến, chủ trương Duy Tân, đã tìm thấy ở chữ Quốc ngữ một phương tiện hết sức là tích cực, hết sức là căn bản, trong việc gây lại cái gọi là ''hồn nước'', diễn đạt cái tinh thần dân tộc, cái bản lĩnh dân tộc, tố chất dân tộc. Họ gửi gắm vào chữ Quốc ngữ rất là nhiều. Mặc dù, nếu khảo sát kỹ, các nhà nghiên cứu thấy rằng các nỗ lực của các nhà nho người Việt suốt nhiều thế kỷ chế tác các chữ Nôm, và phương pháp làm chữ Nôm cũng rất đáng kể, đến mức có thể ghi được những sáng tác bằng tiếng Việt, mà điển hình là Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán… Ví dụ như vần điệu của các tác phẩm thơ như thế chứng tỏ những nỗ lực cực kỳ lớn của những người đã làm ra bộ chữ Nôm, dựa trên các mẫu tự chữ Hán. Thế nhưng, các nhà nho ở thời hiện đại, đầu thế kỷ XX trở đi, thì lại nhìn thấy trong chữ Quốc ngữ rõ hơn cái tinh thần độc lập của dân tộc mình. Theo tôi, những nhà nho Duy Tân đó đã gửi vào trong chữ Quốc ngữ một kỳ vọng cực kỳ lớn. Đằng sau nó là những giá trị hết sức quan trọng, mang tính xu hướng, giá trị về tính độc lập. Rất có thể trước đó dùng các chữ mượn các phương cách của chữ Hán, thì đến lúc này người ta nhận ra là những cái bản sắc thể hiện ở đó không thể nào rõ bằng việc viết bằng chữ cái abc''. Trong "Văn minh tân học sách" bằng chữ Hán, ra đời trước năm 1907, cương lĩnh của phong trào Duy Tân, có đoạn "Biện pháp đầu tiên trong số 6 kế sách ''mở mang dân trí'' là ''dùng văn tự nước nhà'', tức chữ Quốc ngữ do ''mục sư Bồ Đào Nha'' chế tác. Copy d'ecran Vì sao Quốc ngữ bằng chữ cái Latinh vốn xa lạ, lại có thể trở nên thân thiết với người Việt đến như vậy trong nhãn quan của giới nho sĩ, trí thức Hán – Nôm đầu thế kỷ XX ? Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cho biết cảm nhận của ông ''Theo tôi, người ta nhìn thấy chữ viết Quốc ngữ ghi tiếng Việt ở dạng hoàn thiện của nó, như một cái gì đó cực kỳ gắn bó với tiếng Việt 4. Bởi vì, cũng là abc, nhưng là một dòng chữ, một câu tiếng Pháp chẳng hạn, thì nó khác, dòng chữ Bồ Đào Nha thì nó khác. Nhưng đây là từng từ một của tiếng Việt. Người ta thấy tiếng Việt hiển hiện ra trong đó. Và người ta thấy À, đây là Việt Nam! Còn cái việc đằng sau các ký tự này là chữ Latinh chẳng hạn, thì đối với họ, điều đó trở nên không quan trọng nữa. Theo tôi, ý nghĩa gắn bó thiết thân của chữ Quốc ngữ với người Việt là ở chỗ đó''. Nhiều câu hỏi để ngỏĐối với nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam, kỷ niệm một thế kỷ chấm dứt nền khoa cử chữ Hán, tồn tại trong suốt gần năm, đã là một cơ hội tốt để soi tỏ giai đoạn bản lề cuối thế kỷ XIX - đầu XX, khi chữ Latinh ghi âm tiếng Việt bằng nhiều ngả đường khác nhau, từng bước khẳng định, vươn lên trở thành chữ viết quốc gia. Sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ, trên thực tế, gần như không gắn gì mấy với cái mốc bỏ thi chữ Hán, với kỳ thi Hội – thi Đình cuối cùng tại Huế năm 1919. Sự lên ngôi của chữ Quốc ngữ và sự suy tàn của khoa cử Hán học rất có thể là hai quá trình về cơ bản diễn ra song song, cho dù có vô vàn tương số nhà nghiên cứu đặc biệt nhấn mạnh, để phục dựng lịch sử chữ Quốc ngữ giai đoạn này, rất cần khai thác những mảng tư liệu lớn trong đó có các loại sách dạy Quốc ngữ, chương trình giảng dạy liên quan đến Quốc ngữ, do các chủ thể khác nhau soạn thảo, từ chính quyền cho đến các tổ chức tư nhân, nội bộ Giáo hội Công Giáo… Nhiều vấn đề mang tính lý thuyết cần được đào sâu, như quan hệ giữa chữ viết với tiếng nói, sự trưởng thành của chữ Quốc ngữ Latinh có ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của bản thân tiếng Việt? Vì sao chữ Quốc ngữ Latinh lại trở nên gần gũi, gắn bó với người Việt hơn chữ Nôm truyền thống? Do dễ học, dễ đọc hay còn vì một lý do nào khác 4? Cú pháp tiếng Việt đã phát triển ra sao trong giai đoạn đột biến này, trong bối cảnh tiếp xúc mạnh mẽ với tiếng Pháp 5? RFI xin chân thành cảm ơn các nhà nghiên cứu Hoàng Dũng, Hồ Hải Thụy và Lại Nguyên Ân. Ghi chú 1 - Tháng 8/2019, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế ''Khoa cử Nho học Việt Nam 1075 - 1919''. Theo cơ quan này, đây là dịp thảo luận về toàn bộ tiến trình phát triển của khoa cử Nho học tại Việt Nam, các giai đoạn manh nha, phát triển, đỉnh cao, thoái trào, ảnh hưởng sâu rộng của khoa cử Nho học trong văn hóa Việt Nam, trong so sánh với các nền văn hóa sử dụng chữ Hán. 2- Hội Ngôn Ngữ Học thành phố Hồ Chí Minh tổ chức một hội thảo mang tựa đề ''100 năm chữ Quốc ngữ'', cuối tháng 12/2019, quy tụ hơn 30 báo cáo, tham luận. 3 - ''Chính sách giáo dục tại Nam Kỳ cuối thế kỷ 19'', Lại Như Bằng dịch và giới thiệu, NXB Thế giới, 2018. 4 – Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hệ chữ cái abc ghi tiếng Việt, dễ hiểu, dễ học, minh bạch, gắn bó rõ ràng với phát âm của tiếng nói hàng ngày, người bản địa dù ít học cũng có thể dễ dàng sử dụng, trong lúc những con chữ Nôm, để hiểu được thường phải thông qua chữ Hán. Xét trên phương diện phát âm, một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến tính chất phản dân chủ tiềm tàng của chữ Hán. Các nhà nho trên thực tế, ngay từ trước Công Nguyên, đã biết cách phân tách phụ âm, phần vần và thanh điệu kỹ thuật phiên thiết trong các sách về Vận Thư. Tuy nhiên, kiến thức này đã không được phổ biến rộng, và không phát triển theo hướng trở thành công cụ ghi âm vị. Chỉ giới nhà nho mới có thể sử dụng. Sự tồn tại và hưng thịnh của chữ Hán về cơ bản gắn liền với sự độc quyền về văn hóa của tầng lớp nho sĩ. Về các xã hội Đông Á sử dụng chữ Hán, nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam, vì lý do này hay khác, đã cố tình bỏ qua việc xã hội Hàn Quốc hay Triều Tiên, ngay từ thế kỷ XV, đã chế tác ra được hệ chữ cái phiên âm vị Hangul, hệ chữ vốn bị lép vế, hoặc bị cấm đoán trong suốt thời kỳ chữ Hán thống trị, nhưng đã trở thành chữ viết chính thức của người Triều Tiên, người Hàn Quốc hiện nay. Hệ chữ phiên âm Hangul của dân Hàn được giới nghiên cứu đánh giá rất cao trên phương diện ghi âm. Chữ Hangul ắt hẳn đã là một phương tiện giúp cho xã hội Triều Tiên thoát khỏi sự thống trị của văn hóa Hán. 5 – Nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ 1922-1999, cố viện trưởng Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam, từng nhấn mạnh đến ý nghĩa của tiếp xúc Pháp – Việt trong sự phát triển của tiếng Việt nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng ''thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp đâu có dài. Nhưng tuy ngắn mà rất quan trọng trong ý nghĩa một đổi mới. Xã hội Việt Nam vốn khép kín đã, với tiếng Pháp, mở rộng dần tầm nhìn ngôn ngữ và văn hoá sang một không gian khác lạ là Pháp và phương Tây. … Ảnh hưởng quan trọng của tiếng Pháp đối với tiếng Việt là về hành văn, như có thể thấy rõ trong thơ mới và trong văn xuôi mới, văn xuôi mới nghệ thuật … văn xuôi báo chí và văn xuôi khoa học cũng đã tiếp nhận ảnh hưởng của văn xuôi báo chí và văn xuôi khoa học Pháp. … Như vậy, tiếng Pháp đã có mặt trong tiếng Việt. Sự có mặt ấy vẫn còn sức sống. Mất đi đâu được! Nó đã được đưa vào trong ý thức của người Việt qua những câu thơ Việt, những câu văn xuôi Việt'' bài ''Nhìn lại thời tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp'', Tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1997. Các bài liên quanGian nan phổ biến chữ quốc ngữ tại Nam Kỳ 1862-1871Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIXNam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX"Nông-cổ mín-đàm", tờ báo kinh tế đầu tiên của Việt NamFrançois-Henri Schneider và tờ Lục-tỉnh Tân-vănDi sản văn chương báo chí chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX bị đe dọaĐại-Nam đồng-văn nhật-báo, tờ báo chữ Hán đầu tiên tại Bắc KỳNguyễn Văn Vĩnh và tờ Đăng-cổ tùng-báoTrước tác của dịch giả, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh còn ở trong tình trạng tản mátNguồn sáng lạ Thiên Chúa Giáo và cách tân văn học Việt Nam Kết cấu chương hồi đã làm nên một nét đặc trưng của nghệ thuật kể chuyện lịch sử của văn học Trung Quốc và Việt Nam. Tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng trên tiến trình phát triển của văn xuôi Việt Nam nói chung, thể loại tiểu thuyết nói riêng. Mức độ thành công ở từng tác phẩm cụ thể không giống nhau nhưng tiểu thuyết chương hồi đã thể hiện được vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ cấu thể loại của nền văn học trung đại. Đồng thời tạo tiền đề cho sự tiếp thu một loại hình tác phẩm mới có xuất xứ từ phương Tây. Tiểu thuyết chương hồi chữ Hán là sản phẩm mang tính nguyên hợp, một quy luật hỗn hợp là đặc trưng nổi bật của văn học trung đại. Đặc trưng này phản ánh hiện tượng khối lượng tri thức xã hội chưa phong phú tới độ phải chia tách thành những chuyên ngành hẹp như ngày nay. Điều này gây nên sự lúng túng cho người tiếp nhận không quen nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tính nguyên hợp. Hiện tượng một tác phẩm được quan sát dựa trên nhiều quan điểm không thống nhất, lại bỏ qua một đặc trưng cơ bản của thể loại đã tạo nên những tranh luận lâu nay. Tính hỗn dung thể loại là một đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam. Tính chất này biểu hiện khả năng dung chứa trong thể loại lớn nhiều thể loại nhỏ hơn. Nói một cách khác, nó thể hiện vai trò trung tâm theo quan điểm lý luận hiện đại của nền văn học, một thể loại có sức thu hút vào mình những thể loại nhỏ khác. Cùng với tính nguyên hợp, tính hỗn dung thể loại phản ánh tình trạng chưa thoát khỏi sự chi phối của những thể loại văn học chức năng trong văn học nghệ thuật. 18 trang Chia sẻ builinh123 Lượt xem 1060 Lượt tải 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu [Tóm tắt] Luận án Thể loại tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên bộ giáo dục vμ đμo tạo viện khoa học x∙ hội việt nam viện văn học vũ thanh hμ thể loại tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ hán việt nam Chuyên ngành Lý luận văn học M∙ số tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn hμ nội - 2009 Công trình đ−ợc hoàn thành tại Viện Văn học - Viện Khoa học X∙ hội Việt Nam Ng−ời h−ớng dẫn khoa học Nguyễn Hữu Sơn Trịnh Bá Đĩnh Phản biện 1 Bùi Văn Ba Tr−ờng Đại học S− phạm Hà Nội Phản biện 2 Trần Ngọc V−ơng Tr−ờng Đại học KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội Phản biện 3 Trần Thị Việt Trung Đại học Thái Nguyên Luận án đ−ợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà n−ớc, họp tại Viện Văn học, 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2009. Có thể tìm hiểu luận án tại Th− viện Quốc gia và Th− viện Viện Văn học - Viện Khoa học X∙ hội Việt Nam Các công trình khoa học đ∙ công bố liên quan đến đề tμi luận án 1. Vũ Thanh Hà 2005, ""Hoàng Lê nhất thống chí" và thể loại tiểu thuyết ch−ơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam", Nghiên cứu Văn học, 6. 2. Vũ Thanh Hà 2006, ""Hoàng Lê nhất thống chí" - một tác phẩm biên niên sử của văn học trung đại Việt Nam", Tạp chí Khoa học, Đại học Vinh, Tập XXXV, 3B. 3. Vũ Thanh Hà 2006, "Chất hài trong tiểu thuyết ch−ơng hồi "Hoàng Lê nhất thống chí"", Tạp chí Khoa học, Đại học Vinh, Tập XXXV, 4B. 4. Vũ Thanh Hà 2008, ""Trùng Quang tâm sử"của Phan Bội Châu và thể loại tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam", Tạp chí Khoa học, Đại học Vinh, Tập XXXVII, 2B. 5. Vũ Thanh Hà 2009, "Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong một số tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam", Ngữ học trẻ 2008. 6. Vũ Thanh Hà 2009, "Tính chất hỗn dung thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam", Tạp chí Khoa học, Đại học Vinh, Tập XXXVII, 3B 1 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Tiểu thuyết ch−ơng hồi TTCH chữ Hán là một bộ phận cấu thành bức tranh thể loại, đồng thời góp phần làm nên giá trị của văn học Việt Nam trung đại. Thể loại này đ−ợc nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu Việt Nam và n−ớc ngoài quan tâm nghiên cứu trên nhiều ph−ơng diện. Phần lớn những bài viết, công trình nghiên cứu tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam TTCHCHVN, chủ yếu nghiên cứu những tác phẩm đơn lẻ, so sánh một số TTCHCHVN với những bộ TTCH Trung Quốc hoặc TTCH chữ Hán của các n−ớc Triều Tiên - Hàn Quốc, Nhật Bản, Cho đến nay, Việt Nam đã có một Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam nh−ng vẫn còn tác phẩm ch−a đ−ợc đ−a vào tổng tập này. Đối với công tác nghiên cứu, việc lựa chọn, thống kê và đ−a ra những tiêu chí phân loại vẫn ch−a đầy đủ và thống nhất ở các nhóm nghiên cứu, dẫn đến tình trạng không thống nhất về số l−ợng TTCHCHVN. Việc phân định rạch ròi khái niệm thể loại cũng nh− cách gọi tên tác phẩm TTCH chữ Hán vẫn đang đ−ợc đặt ra đối với công tác nghiên cứu. Đối với nghiên cứu sinh, là ng−ời tham gia giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở tr−ờng trung học phổ thông, nghiên cứu TTCHCHVN giúp nâng cao nhận thức phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy. Nội dung khoa học của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, học tập của sinh viên các tr−ờng đại học, cao đẳng có giảng dạy chuyên ngành lý luận văn học và văn học cổ trung đại. Nghiên cứu thể loại là một ph−ơng pháp nghiên cứu đang trở thành một trong những h−ớng đi đạt đ−ợc nhiều kết quả đối với giới nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại trong những năm gần đây. Thành quả của những công trình nghiên cứu thể loại trong những năm qua ở Việt Nam đã trở thành cơ sở cho việc lựa chọn đề tài cũng nh− ph−ơng pháp nghiên cứu lý thuyết đối với TTCHCHVN. 2. Lịch sử vấn đề Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đ−ợc nhiều học giả trong và ngoài n−ớc quan tâm và đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo về thể loại này. Các công trình nói trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về các ph−ơng diện Quan niệm, nhận định và phân loại tác phẩm; nội dung và nghệ thuật; văn bản, tác giả và nhân vật; sự ảnh h−ởng của TTCH Trung Quốc đối với TTCHCHVN. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm của TTCHCHVN. Tuy nhiên, việc đặt vấn đề nghiên cứu TTCHCHVN trên cấp độ thể loại thì vẫn ch−a đ−ợc quan tâm đúng mức. Trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn TTCHCHVN làm đề tài nghiên cứu. 3. Phạm vi và đối t−ợng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Những tiền đề văn hóa - văn học của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam; Nghệ thuật xây dựng hình t−ợng nhân vật và miêu thuật các sự kiện lịch sử; Đặc điểm kết cấu và vấn đề thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Đối t−ợng nghiên cứu gồm bảy tác phẩm Hoan Châu ký, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long h−ng chí, Việt Lam xuân thu, Tây D−ơng Gia Tô bí lục, Trùng Quang tâm sử. 3 4. Ph−ơng pháp nghiên cứu Những ph−ơng pháp nghiên cứu thể loại văn học Ph−ơng pháp loại hình, ph−ơng pháp hệ thống - cấu trúc, ph−ơng pháp so sánh. Ngoài ra, luận án còn vận dụng những ph−ơng pháp nghiên cứu hiện đại đang đ−ợc sử dụng trong nghiên cứu văn xuôi nh− thi pháp học, tự sự học, cấu trúc,... Cùng với những ph−ơng pháp nghiên cứu trên, luận án sử dụng các thao tác cụ thể nh− khảo sát, thống kê, phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát, đánh giá. 5. Đóng góp khoa học của luận án Luận án tập trung nghiên cứu TTCHCHVN với cái nhìn toàn diện về một thể loại quan trọng của văn học Việt Nam trung đại. Đồng thời, hệ thống lại những quan điểm của các nhà nghiên cứu về TTCHCHVN từ tr−ớc đến nay, từ đó làm rõ những vấn đề liên quan đến khái niệm Tiểu thuyết ch−ơng hồi. Ngoài việc tìm hiểu những giá trị nghệ thuật, giá trị t− t−ởng cùng những giới hạn của thể loại văn học này, luận án đánh giá vị trí của TTCHCHVN trong tiến trình phát triển văn học, của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Luận án đem đến cái nhìn khái quát về TTCH, viết bằng chữ Hán. Luận án có nhiệm vụ đối sánh một số ph−ơng diện của TTCH giữa các nền văn học trong khu vực cùng chịu ảnh h−ởng của văn học Trung Quốc, để nhận diện bản sắc của TTCHCHVN. Nghiên cứu theo ph−ơng pháp thể loại là một cách tiếp cận t−ơng đối mới các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại. Với h−ớng nghiên cứu này, luận án giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến TTCH, viết bằng chữ Hán nhằm chỉ ra những đặc tr−ng, tính chất thể loại, cấu trúc và những nguyên tắc nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả sự kiện lịch sử. Ngoài ra, chúng tôi mong đ−ợc đóng góp một số ý kiến về công tác nghiên cứu văn xuôi cũng nh− những thể loại khác của văn học Việt Nam trung đại. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 3 ch−ơng Ch−ơng 1 Khái quát về sự ra đời thể loại tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Ch−ơng 2 Nghệ thuật xây dựng hình t−ợng nhân vật và miêu thuật các sự kiện lịch sử. Ch−ơng 3 Đặc điểm kết cấu và vấn đề thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. 5 nội dung cơ bản của luận án Ch−ơng 1 Khái quát về sự ra đời thể loại tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Tiểu thuyết và những quan niệm về tiểu thuyết ch−ơng hồi Những quan niệm về tiểu thuyết Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa về tiểu thuyết đ−ợc đ−a ra, mỗi định nghĩa đều có những nội dung đúng đắn, hợp lý nh−ng không định nghĩa nào đạt đ−ợc sự thống nhất tuyệt đối. Những nhà lý luận và sáng tác trên thế giới và các tác giả Việt Nam đều có những ý kiến phát biểu d−ới hình thức những "tuyên ngôn" hoặc những nhận định về tiểu thuyết nh−ng không có định nghĩa nào đủ sức bao quát đ−ợc toàn bộ tính chất của thể loại này. Ngay từ những ngày đầu thế kỷ XX, các học giả Việt Nam đã có những nhận định về tiểu thuyết. Phạm Quỳnh cho rằng, nghĩa hai chữ "tiểu thuyết" trong sách Trung Quốc rộng lắm, phàm sách gì không phải là sách "chính th−" đều là tiểu thuyết, nh−ng tiểu thuyết đây tức là tạp thuyết, có khác với nghĩa tiểu thuyết nh− ngày nay. Trần Nghĩa cho rằng, đây là một thể loại văn học lớn mà đặc tr−ng cơ bản là thông qua việc miêu tả tình tiết câu chuyện và hoàn cảnh cụ thể để khắc họa tính cách nhân vật, nhằm phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Đối với các học giả cổ đại Trung Quốc, tiểu thuyết không phải là cái đ−ợc phân loại, mà là vì không phân loại đ−ợc nên mới thành tiểu thuyết. Với các nhà nghiên cứu ph−ơng Tây, d−ờng nh− họ không có ấn t−ợng gì về tiểu thuyết cổ ở Trung Quốc và các n−ớc sử dụng chữ Hán trong quá trình đ−a ra định nghĩa về tiểu thuyết. Với các học giả ph−ơng Đông, cụ thể là ở Trung Quốc và Việt Nam, định nghĩa tiểu thuyết cũng rất mơ hồ và hầu nh− ch−a đ−ợc cô đúc thành một khái niệm và mới chỉ là những quan niệm hết sức ngắn gọn, giản đơn, ch−a nêu lên đ−ợc những đặc tr−ng cơ bản của thể loại. Khái niệm Tiểu thuyết ch−ơng hồi Thuật ngữ Tiểu thuyết ch−ơng hồi chỉ một dạng thức tiểu thuyết tr−ờng thiên, một thể loại quan trọng trong văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam. Tiểu thuyết viết theo dạng này đ−ợc phân chia thành các hồi khác nhau, phát triển từ lối giảng sử thoại bản thời Tống - Nguyên Trung Quốc. Thoại bản giảng sử th−ờng là tr−ờng thiên, là những câu chuyện lịch sử dài, có dung l−ợng lớn nên họ không thể kể xong ngay một lần, buộc phải ngắt ra từng phần khác nhau, mỗi phần đ−ợc đặt một tiêu đề còn gọi là hồi mục để tóm l−ợc nội dung. Đó chính là cơ sở để hình thành các hồi, tiết, quyển của TTCH sau này. Từ tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc đến sự ra đời của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Vài nét về tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc Trung Quốc là một n−ớc có nền văn học phát triển rực rỡ và lâu đời. Bên cạnh những thể loại gắn với một triều đại nh− Đ−ờng thi, Tống từ, ng−ời ta không thể không nhắc tới TTCH thời Minh - Thanh, với những tác phẩm nh− Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Thủy hử, Hồng lâu mộng... Trong phần này, chúng tôi điểm qua một số tác phẩm TTCH tiêu biểu của văn học Trung Quốc, để đ−a ra những nét đặc tr−ng tiêu 7 biểu. Đối với TTCH Trung Quốc và TTCHCHVN, nghệ thuật kể chuyện theo lối ch−ơng hồi đã làm nên một sáng tạo độc đáo. ảnh h−ởng của tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc TTCHCHVN tiếp thu từ mô hình TTCH Trung Quốc trong bối cảnh nền văn học n−ớc ta ch−a có một thể loại văn học phù hợp, t−ơng ứng, để phản ánh những vấn đề lớn lao của lịch sử. Tuy nhiên, các tác giả Việt Nam chỉ m−ợn lối viết, khuôn mẫu tác phẩm hình thức nghệ thuật cũng nh− những quy tắc nghệ thuật. Chữ Hán đ−ợc sử dụng trong các sáng tác TTCH viết bằng văn xuôi trong khi chữ Nôm lại đ−ợc trọng dụng trong sáng tác văn vần - truyện thơ. Nội dung của TTCHCHVN là những vấn đề lịch sử cụ thể của đất n−ớc và con ng−ời Việt Nam trong những thời điểm nhất định, thậm chí là lịch sử đ−ơng thời của tác giả. Tiếp thu có chọn lọc Tiếp thu những nguyên tắc nghệ thuật TTCH Trung Quốc, các tác giả Việt Nam đã tạo lập cho mình một thể loại văn học phù hợp với nhu cầu phản ánh, th−ởng thức và t− duy nghệ thuật của ng−ời Việt. Thứ nhất, mô hình tác phẩm ch−ơng hồi đ−ợc dùng trong việc kể chuyện lịch sử Trung Quốc vốn quen thuộc với bạn đọc Việt Nam đã đ−ợc vận dụng vào việc kể những câu chuyện lịch sử của n−ớc Việt. Thứ hai, tác giả Việt Nam đã thừa h−ởng những nguyên tắc xây dựng nhân vật, kinh nghiệm miêu tả các sự kiện lịch sử cũng nh− lối dẫn dắt câu chuyện lịch sử. Thứ ba, kết cấu "hồi cố" với cụm từ "lại nói...", "nay lại nói..." đ−ợc vận dụng triệt để trong việc dẫn dắt câu chuyện và liệt kê các sự kiện. Thứ t−, chữ Hán là sự lựa chọn bắt buộc đối với các tác giả Việt Nam. Ng−ời ta không thể phủ nhận sự phù hợp giữa chữ Hán và thể loại này. Ngôn ngữ khoa tr−ơng, hoành tráng phù hợp với lối diễn đạt giàu hình ảnh, hoa mỹ, t−ợng tr−ng, −ớc lệ trong những câu văn đăng đối nhịp nhàng đã làm nên sức mạnh truyền tải nội dung. Cho dù thế, TTCHCHVN không phải là cái bóng của tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc. Bản sắc tiẻu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc có nguồn gốc từ lối giảng sử thoại bản, là sự đúc kết từ những câu chuyện lịch sử trong dân gian, có độ lùi khá lớn về thời gian. Với TTCHCHVN, lịch sử đi vào tác phẩm gần nh− trực tiếp, thậm chí là lịch sử đ−ơng thời. Nếu TTCH Trung Quốc đ−ợc thừa h−ởng cốt truyện với các tình tiết và hệ thống nhân vật đã định hình t−ơng đối hoàn chỉnh qua truyền thống "thuyết th−" thì TTCHCHVN phản ánh khá chân thực lịch sử Việt Nam đ−ơng thời hoặc không cách xa thời của tác giả bao nhiêu. Đây cũng là lý do khiến TTCHCHVN "gần với ký sự lịch sử", ít bị ảnh h−ởng của yếu tố văn hóa dân gian, huyền thoại hóa. Không phải TTCHCHVN nào cũng tuân thủ theo lối chép sử biên niên một cách cứng nhắc mà có những sáng tạo nhất định. Trong TTCHCHVN có sự tham gia của tác giả nh− một nhân vật ngay trong tác phẩm. Đây là việc rất mới mẻ so với TTCH của các n−ớc trong khu vực. TTCHCHVN chủ yếu tập trung khai thác những vấn đề liên quan đến vận mệnh tổ quốc hoặc những sự kiện và nhân vật lịch sử. Ngoài đề tài lịch sử, TTCH của những n−ớc khác trong khu vực tập trung vào đề tài tình yêu đôi lứa. Sự ảnh h−ởng của TTCH Trung Quốc đối với nền văn học của các n−ớc xung quanh rất lớn, không chỉ chữ viết, mô hình thể loại, các nguyên tắc sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, mà còn ảnh h−ởng bởi t− duy tiểu thuyết, khác hẳn t− duy khoa học lịch sử. 9 Từ điểm nhìn sử gia đến điểm nhìn tác giả tiểu thuyết ch−ơng hồi Điểm nhìn tác giả trong sáng tác văn xuôi Các tác giả TTCHCHVN đứng trên quan điểm của tác giả văn học để phản ánh lịch sử, dùng cái nhìn của nhà văn để nhận thức lịch sử. Bằng cách này, họ muốn cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khác so với chính sử về những sự kiện, nhân vật trong lịch sử. Từ điểm nhìn nhà sử học chuyển sang điểm nhìn nhà văn là một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp trong bối cảnh sự tôn trọng của công chúng đối với hai loại hình tác phẩm, tác giả này rất khác nhau. Tác giả tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Khi có một thể loại văn học cũng đồng nghĩa với việc công nhận một kiểu, một loại hình tác giả t−ơng ứng. TTCHCHVN có nội dung liên quan đến lịch sử quốc gia, do ng−ời Việt Nam thực hiện nh−ng mô hình, nguyên tắc sáng tác và chữ viết lại đ−ợc vay m−ợn của n−ớc ngoài. Một trong những yêu cầu tiên quyết là tác giả đó phải là ng−ời thông thạo Hán ngữ, có trình độ học vấn cao, có điều kiện nhiều nơi để khảo sát t− liệu lịch sử. Tất nhiên, khi viết về những vấn đề liên quan đến lịch sử Việt Nam, đòi hỏi ng−ời cầm bút phải tinh thông lịch sử. Tác giả TTCH là những ng−ời vừa có niềm đam mê của nhà sử học vừa có tâm hồn lãng mạn của nhà tiểu thuyết. Từ tác giả lịch sử đến tác giả tiểu thuyết ch−ơng hồi Có thể nói, nhà sử học đã kết hợp cả ý thức khoa học khách quan với ý thức văn nghệ linh hoạt sinh động. Họ vừa nghiên cứu quy luật, phục chế sự kiện, chi tiết vừa miêu tả, đánh giá. Chính họ làm nên tính nguyên hợp trong văn học trung đại nói chung, TTCH nói riêng. Trong mối liên hệ giữa thực tế và lý luận, tác giả sử học là nguyên mẫu của kiểu tác giả tự sự trung đại. Từ bỏ sự tôn sùng đối với tác giả lịch sử để đảm nhận vai trò tác giả TTCH đ−ợc xem là sự "dũng cảm" của ng−ời cầm bút. Tóm lại, dù nguồn gốc hình thành, quan niệm và cách gọi của nhiều ng−ời có khác nhau nh−ng TTCHCHVN đã đ−ợc khai sinh, phát triển cho đến khi có một loại hình tiểu thuyết mới thay thế. TTCHCHVN có bản sắc và những giá trị nổi bật, khu biệt với TTCH của một số n−ớc trong khu vực chịu ảnh h−ởng của văn học Trung Quốc. Sự dịch chuyển trong điểm nhìn tác giả TTCHCHVN là một vấn đề quan trọng của văn học trung đại. TTCHCHVN đã đem đến cho bạn đọc một cái nhìn phong phú, sinh động hơn về những vấn đề của lịch sử, đồng thời tạo nên một đội ngũ tác giả có ý thức sáng tác văn ch−ơng nghệ thuật. B−ớc đầu có thể xác định, TTCH là một khái niệm mang tính khu vực. 11 Ch−ơng 2 nghệ thuật xây dựng hình t−ợng nhân vật vμ miêu thuật các sự kiện lịch sử Từ nhân vật lịch sử đến nhân vật tiểu thuyết ch−ơng hồi Nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết ch−ơng hồi Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam hầu nh− lấy sự kiện và nhân vật phần nhiều có thật trong lịch sử làm đề tài. Khác với nhà sử học, ghi chép về một ng−ời nào đó đòi hỏi cao ở tính chân xác, tác giả tiểu thuyết lại đem đến cho bạn đọc một hình ảnh về con ng−ời sinh động nh− "nó vốn có" hoặc "cần phải có" trong cuộc sống. Nhân vật của tiểu thuyết là ng−ời đang sống có suy nghĩ, hành động, ngôn ngữ, tính cách của con ng−ời trong cuộc sống hiện thực. Đối với tác giả tiểu thuyết, các nhân vật lịch sử đ−ợc quan sát từ nhiều phía, thậm chí đ−ợc nhìn từ "trong bóng tối", vì vậy mà rõ ràng và đầy đủ hơn. Quan niệm về nhân vật lịch sử trong văn học Nhân vật lịch sử là những con ng−ời có thật trong lịch sử, có vai trò quan trọng trong một thời điểm lịch sử gắn với một sự kiện hoặc địa danh cụ thể. Nhân vật đó có tầm ảnh h−ởng lớn trong những b−ớc ngoặt lịch sử, là ng−ời đại diện cho xu thế phát triển của thời đại. D−ới cái nhìn của các nhà sử học, nhân vật lịch sử chỉ đơn thuần là các hiện t−ợng lịch sử, đ−ợc sử sách ghi chép lại bằng những nét rất cơ bản, nếu trong truyền thuyết sự mơ hồ lại càng lớn. Tác giả TTCH trở thành ng−ời th− ký "trung thành" trong việc phản ánh những gì mà các sử gia còn bỏ sót, trung thành với lý lịch, thời đại của nhân vật nh−ng những chi tiết cụ thể về diện mạo, tính cách, ngôn ngữ, hành động, tâm t− tình cảm, thái độ... của nhân vật đã đ−ợc h− cấu. Vì thế, nhân vật lịch sử trong tác phẩm văn học sinh động hơn, đầy đủ hơn. Mức độ sáng tạo của nhà văn đối với nhân vật lịch sử Để khắc họa tính cách nhân vật, tác giả th−ờng chọn những khoảnh khắc lịch sử quan trọng, những thời điểm có tính chất "thử vàng", nhân vật buộc phải bộc lộ tính cách. TTLS nói chung, TTCHCHVN nói riêng, nhân vật đ−ợc miêu tả căn cứ trên một cứ liệu lịch sử nhất định. Cũng không phải "tầm th−ờng hóa, xác thịt và con ng−ời hóa" một số "anh hùng", "thần t−ợng". Sáng tạo đối với nhân vật lịch sử là đem đến một cái nhìn mới từ một hình t−ợng cũ, quen thuộc. Vua chúa là ng−ời đại diện cho triều đại, đồng thời là nhân vật trung tâm của tác phẩm, phản ánh những vấn đề nổi bật, mâu thuẫn chính, các xung đột chính trị trong các tập đoàn phong kiến. Ca ngợi công lao của các bậc khai quốc, tổ nghiệp là lẽ th−ờng tình nh−ng không phải lúc nào ý thức dân tộc tiến bộ cũng đ−ợc tôn trọng, nhiều khi chỉ là sự bênh vực dòng chính thống mà dẫn đến phê phán phe đối lập có thể là những ng−ời tiến bộ hơn để bảo vệ sự lạc hậu, thối nát, sa đọa của phe mình. H− cấu những sự kiện, nhân vật có thật trong lịch sử là trình bày một nhận thức mới của tác giả, giúp ng−ời đọc dễ hình dung về lịch sử hơn. Miêu tả sáng tạo làm cho lịch sử sống lại, lung linh hơn. Nhờ thế ng−ời đời sau dễ hiểu về quá khứ hơn, cũng là sự bổ sung cho chính sử. Nghệ thuật miêu tả nhân vật Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật 13 Bút pháp miêu tả công thức, t−ợng tr−ng, −ớc lệ TTCHCHVN ch−a phải là đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả nhân vật và cũng ch−a thực sự thoát khỏi lối miêu tả t−ợng tr−ng, khuôn mẫu, công thức của bút pháp trung đại, nh−ng dù sao thể loại này cũng đã tạo sự khác biệt đáng kể so với sử. TTCHCHVN th−ờng miêu tả nhân vật theo nguyên tắc miêu tả của TTCH Trung Quốc, cho nhân vật xuất hiện một cách đột ngột trong các trận đánh, giới thiệu qua một câu nói gây sự chú ý. Sự xuất hiện ban đầu bao giờ cũng đ−ợc đặc tả về ngoại hình nh− dáng vóc, n−ớc da, khuôn mặt, râu tóc, vũ khí sử dụng và đặc biệt là t− thế xung trận của họ. Thậm chí có tác giả còn mô phỏng nhân vật, miêu tả chiến trận theo hình mẫu có sẵn trong TTCH Trung Quốc. Có ba kiểu hình t−ợng nhân vật đáng chú ý. Hình t−ợng nhân vật vua, chúa Hình t−ợng nhân vật quan lại, khanh t−ớng Hình t−ợng nhân vật nữ Có thể nói, hầu nh− các tác giả TTCHCHVN ch−a thoát khỏi cách xây dựng, miêu tả nhân vật theo công thức t−ợng tr−ng, −ớc lệ của bút pháp miêu tả nhân vật trong văn học trung đại. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật Miêu tả tâm lý nhân vật phải đợi đến tiểu thuyết hiện đại. Nh−ng xét cho cùng, tác giả TTCHCHVN cũng đã bắt đầu chú ý đến tâm lý nhân vật, mặc dù vẫn ở một mức độ sơ khai, đơn giản. Tác giả TTCHCHVN th−ờng chú trọng vào hành động của nhân vật, thông qua lời nói của bản thân hoặc những nhận xét của ng−ời khác mà ch−a chú tâm vào miêu tả tâm lý. Ngôn ngữ nhân vật Nhân vật của TTCHCHVN đ−ợc xây dựng chủ yếu dựa trên bút pháp t−ợng tr−ng, −ớc lệ, cho nên ngôn ngữ của nhân vật cũng chịu ảnh h−ởng bởi bút pháp này. Ngôn ngữ của nhân vật bị qui định chặt chẽ bởi lối diễn đạt công thức, nhiều sáo ngữ hoa mỹ, chơi chữ, sử dụng thành ngữ, tục ngữ hoặc lối diễn đạt giàu hình ảnh, vận dụng điển cố, điển tích... hoặc th−ờng so sánh, ví von với các nhân vật nổi tiếng trong sử sách Trung Quốc hoặc Việt Nam. Dù nhân vật là ng−ời có trình độ học vấn cao hay chỉ là kẻ bề tôi hèn mọn không biết chữ thì ngôn ngữ của họ cũng rất sang trọng. Tranh luận về chính thống, chính - ngụy, về sự "sáng", "tối", "Nho tiểu nhân", "Nho quân tử" đã đ−ợc tác giả khéo léo đ−a vào các mẩu đối thoại giữa các nhân vật, không còn là những lời giáo thuyết khô khan. Nghệ thuật miêu tả các sự kiện lịch sử Sức hấp dẫn của TTCHCHVN chính là chỗ nó đã miêu tả thành công hàng loạt những sự kiện lịch sử diễn ra trong suốt năm thế kỷ, từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX. Mặc dù đ−ợc miêu tả theo những công thức có sẵn theo cách vận dụng binh pháp nh−ng tác giả đã đem đến cho ng−ời đọc cảm giác đ−ợc sống lại những giây phút hào hùng của những trận chiến kinh thiên động địa, những phen biến đổi sơn hà. Vấn đề không gian, thời gian trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Thời gian trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Thời gian biên niên, xâu chuỗi sự kiện liên tục Lối liệt kê sự kiện lịch sử theo chiều tuyến tính của thời gian hiện thực bằng cách ghi rõ năm tháng, tuế thứ, can chi của lối ghi chép biên niên đã làm cho ng−ời đọc 15 không dứt ra khỏi sự kiện và có cảm giác ng−ời viết sách chỉ chú tâm làm sao nêu bật đ−ợc hết những sự kiện của giai đoạn lịch sử ấy. Mỗi sự kiện lịch sử trong tác phẩm đã đ−ợc kể một cách đầy đủ, có đầu có đuôi theo nguyên tắc cảm thụ toàn vẹn, nghĩa là thời gian khép kín trong từng sự việc. Thời gian trong sự dồn nén sự kiện Tuyến thời gian có thể kể theo năm tháng cụ thể hoặc những đoạn hồi cố theo công thức "lại nói", "vào lúc đó", "hôm đó", cũng có khi là thời gian liên tục theo các sự kiện. Ng−ời trần thuật đứng từ một khoảng cách xa, đứng ngoài nhân vật điều khiển việc xâu chuỗi sự việc, khiến cho tác phẩm là sự tiểu thuyết hóa lịch sử ở bình diện kết cấu sự kiện, ng−ời đọc không có cảm giác của thời gian quá khứ. D−ờng nh− tất cả các sự kiện cùng hiện lên trên bề mặt của tác phẩm theo từng ô có thứ tự, nh− những môđun lắp ghép lại với nhau để tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh. Tác giả có thể thay đổi thứ tự các sự kiện nhỏ mà không làm thay đổi ý nghĩa nội dung của sự kiện chính và có thể mở rộng biên độ đến vô cùng, không sợ bỏ sót, thể hiện khả năng lựa chọn và trình bày sự kiện của tác giả TTCH. Không gian trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Không gian gắn với sự kiện lịch sử Trong TTCHCHVN, các sự kiện và nhân vật luôn gắn với không gian Cung đình hoặc chiến tr−ờng. Gắn với không gian cung đình là hoạt động của vua chúa, quan lại, những cuộc tranh đoạt ngôi cao, m−u mô chính trị và những nghi thức của chốn cung khuyết. TTCHCHVN đã v−ợt qua rào cản hạn hẹp của không gian cung đình, thả sức tung hoành trên mọi không gian. Sự kiện lịch sử đ−ợc phản ánh trong tác phẩm không chỉ liên quan đến cung cấm mà còn là cuộc sống của nhân dân trong cảnh n−ớc sôi lửa bỏng của chiến tranh, loạn lạc. Không gian gắn với nhân vật lịch sử Hoạt động của nhân vật bao giờ cũng gắn liền với một không gian cụ thể. Không gian hoạt động chính là môi tr−ờng để nhân vật thể hiện hành động và bộc lộ tính cách của mình. Thông qua không gian và hoạt động của nhân vật, phạm vi câu chuyện đ−ợc mở rộng. Nhân vật đi đến đâu, không gian truyện đ−ợc mở ra đến đấy. Tấm "bản đồ" sự kiện của tác phẩm rộng hay hẹp là do biên độ hoạt động của nhân vật xa hay gần. Không gian trong TTCHCHVN chủ yếu gắn liền với các sự kiện, với mỗi sự kiện lịch sử lại có một hay nhiều nhân vật, các nhân vật và sự kiện này lại diễn ra trong không gian nhất định. Tóm lại, dù viết theo quan điểm lịch sử nào, chính thống hay phi chính thống, theo sự điều khiển của ý thức khách quan hay chủ quan thì tác giả vẫn phải dựa trên những câu chuyện của những nhân vật, sự kiện lịch sử có thật hoặc h− cấu để từ đó miêu tả theo nguyên mẫu hay sáng tạo ít nhiều. Thông qua đó, bạn đọc có thêm một cái nhìn mới mẻ, sinh động về các nhân vật của lịch sử. TTCHCHVN vẫn còn nặng tính chất ký sự lịch sử, tác giả chú tâm liệt kê sự kiện, ch−a chú trọng miêu tả tâm lý nhân vật. Tác phẩm là sự đan dày của sự kiện, khiến cho ng−ời đọc có cảm giác bị ngợp trong sự kiện. Một số tác phẩm ch−a thoát khỏi lối ghi chép biên niên sử, thuật lại các sự kiện theo trình tự tuyến tính của thời gian, không chú ý phân tích sự kiện để tăng thêm tính tiểu thuyết của tác phẩm. 17 Nghệ thuật miêu tả sự kiện, nhân vật trong không gian và thời gian là một trong những thành công của TTCHCHVN, thể hiện khả năng lựa chọn và trình bày vấn đề, khiến cho TTCHCHVN có tính hấp dẫn đặc biệt. Ch−ơng 3 đặc điểm kết cấu vμ Vấn đề thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ hán Việt Nam Kết cấu tác phẩm của tiểu thuyết ch−ơng hồi Kết cấu ch−ơng hồi là hình thức có tính cơ bản, bền vững, t−ơng đối thống nhất. Đặc tr−ng kết cấu tác phẩm đã làm nên đặc tr−ng của thể loại. Kết cấu tác phẩm và việc phân chia thành hồi, quyển, tiết Kết cấu TTCHCHVN đ−ợc chia thành hai nhóm Nhóm thứ nhất, các hồi đ−ợc xây dựng theo "hồi chuẩn" có hai câu đối ngẫu đặt ở đầu hồi, tóm tắt nội dung, hai câu thơ thất ngôn đặt ở cuối hồi kiểu nh− là một lời "bình luận" của "thời nhân" hoặc "hậu nhân". Nhóm này gồm các tác phẩm Hoan Châu ký, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng Việt long h−ng chí, Việt Lam xuân thu. Nhóm thứ hai, các hồi đ−ợc xây dựng không theo mô hình "hồi chuẩn". Trong đó có Nam triều công nghiệp diễn chí, Tây D−ơng Gia Tô bí lục, Trùng Quang tâm sử. Các khái niệm kết cấu tác phẩm nh− hồi, quyển, tiết không chỉ có ý nghĩa chia đoạn tác phẩm mà nó còn là cách để chứng tỏ đây là hình thức của lối diễn sử, giảng sử của tác phẩm văn ch−ơng, hình thức đặc tr−ng của thể loại TTCH. Nguyên nhân có những đặc điểm nh− trên là bởi xuất phát từ truyền thống kể chuyện của "thuyết thoại nhân", "thuyết th− nhân" Trung Quốc x−a kia. Đây là cách đánh vào sự hiếu kỳ của ng−ời nghe, buộc phải theo dõi tiếp câu chuyện, những ng−ời kể chuyện đã tạo nên sự "đứt quãng" lý thú này. Ng−ời kể chuyện sống bằng tiền th−ớng đóng góp của ng−ời nghe chuyện, không tạo nên sự hiếu kỳ thì không thu hút đ−ợc thính giả. Kết cấu hồi cố - một đặc điểm nổi bật của thể loại TTCHCHVN th−ờng mở đầu mỗi hồi hoặc mở đầu các đoạn kể bằng cụm từ "lại nói", "nay lại nói", "hồi bấy giờ...", "lúc ấy..." đ−ợc lặp đi lặp lại nh− một công thức. Đây là cách tác giả xâu chuỗi sự kiện trên một trục thời gian nhằm phục vụ cho việc trần thuật các sự kiện cũng nh− nhân vật nh−ng không gây ra cảm giác về thời gian quá khứ. Bằng cách duy trì kết cấu hồi cố, tác giả đã tạo cho chiều kích của vấn đề trong tác phẩm có biên độ rộng hơn. Với khả năng đồng hiện trên cùng một cấp độ thời gian, tác giả sẽ cung cấp cho ng−ời nghe toàn bộ nội dung của câu chuyện đang kể và tùy ý lựa chọn, sắp xếp các phần, mảng sự kiện sao cho đạt đ−ợc hiệu quả cao nhất cũng nh− quyết định cho xuất hiện bao nhiêu vấn đề, sự kiện cùng nhân vật trong một lần kể. Tính nguyên hợp của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Tính nguyên hợp trong văn học thời trung đại Một trong những đặc tr−ng đáng chú ý của văn học trung đại là tính nguyên hợp Văn - Sử - Triết bất phân. Tìm hiểu tính nguyên hợp của thể loại này là nhằm khẳng định một đặc tr−ng thể loại tồn tại bên cạnh những đặc tr−ng nổi bật khác, đồng thời củng cố thêm nhận thức về TTCHCHVN trong nghiên cứu cũng nh− th−ởng thức. 19 Từ loại hình tác giả nguyên hợp của đội ngũ trí thức trung đại đã dẫn đến tính nguyên hợp trong sản phẩm của hoạt động nghệ thuật. Những ng−ời làm quan, làm những ngành nghề khác nhau hoặc nắm giữ những vai trò quan trọng trong xã hội vẫn có thể tham gia hoạt động sáng tác. Từ đó dẫn đến hiện t−ợng tác phẩm nghệ thuật mang trong nó nhiều phẩm chất, tri thức của nhiều "chuyên ngành" khác nhau. Mối quan hệ Văn - Sử TTCHCHVN đ−ợc xây dựng nhằm l−u lại, kể lại lịch sử của thời đại, triều đại mình cho đời sau. Nếu căn cứ vào nội dung phản ánh, TTCHCHVN là những tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử, khiến nhiều ng−ời vẫn gọi chúng là TTLS. Khi nói TTCH là ng−ời ta quan tâm đến hình thức, đến cấu trúc thể loại của tác phẩm. Mối quan hệ văn - sử trong TTCH mang màu sắc của mối liên hệ giữa nội dung đề tài và ph−ơng thức biểu hiện. Bỏ qua lối ghi chép lạnh lùng, nghiêm trang của "sử bút", tác giả TTCH đã tìm đ−ợc một ph−ơng thức truyền tải những nội dung thuộc về lịch sử một cách uyển chuyển, sinh động và mềm dẻo hơn. Chính điều này đã đảm bảo cho tính nguyên vẹn, chính xác và đầy đủ thông tin của những sự kiện và nhân vật lịch sử d−ới hình thức tác phẩm văn học. Mối quan hệ Văn - Triết và những quan niệm triết học ph−ơng Đông trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Tính triết học chỉ có thể hiểu là những nội dung t− t−ởng đ−ợc biểu hiện trong những quan niệm của Nho giáo trong những hoạt động đấu tranh chính trị, chiến đấu chống thù trong giặc ngoài, xây dựng các triều đại phong kiến, tôn phò dòng chính thống. T− t−ởng thiên mệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của tầng lớp nhà Nho nói riêng, ng−ời dân ph−ơng Đông nói chung nên chẳng xa lạ gì khi tác giả giải thích các sự kiện lịch sử xã hội hiện t−ợng tự nhiên, phong thủy d−ới nhận thức của thuyết thiên mệnh. Nếu những thành công của con ng−ời đạt đ−ợc thực sự do có sự giúp sức của các thế lực siêu nhiên hoặc do sự sắp đặt của tự nhiên, là sự thuận theo thiên mệnh thì sự tài giỏi của các bậc đế v−ơng có còn có gì đáng kể. T− t−ởng tôn phò chính thống - ngọn cờ tôn giáo Khẳng định nhà n−ớc, chính quyền, đạo đức, lễ giáo, trật tự xã hội, thế giới quan, ý thức hệ phong kiến, đề cao chủ nghĩa trung quân - ái quốc, phân biệt chính - ngụy, đặc biệt là đề cao tinh thần ủng hộ dòng dõi chính thống... là nội dung "tải đạo" của TTCHCHVN. Khẳng định chính nghĩa, tôn phò chính thống, là ngọn cờ để tập lực l−ợng của các phe phái chính trị trong công cuộc trung h−ng một triều đại phong kiến. Trong lịch sử các triều đại phong kiến, các triều đại đ−ợc nối tiếp nhau theo kiểu cha truyền con nối. Với những triều đại vững mạnh, các đời nối tiếp, không bị ngắt quãng bởi dòng chính thống, kể cả những ng−ời thừa kế ngai vàng còn rất ít tuổi vì thực quyền có khi nằm trong tay ng−ời khác. Có những triều đại với nhiều lý do đã không còn đủ sức cai quản đất n−ớc hoặc tỏ ra bất lực, sa đọa, có nhiều chính sách hà khắc, bất đồng quyền lợi với đa số nhân dân thì lập tức xuất hiện một lực l−ợng mới thay thế. Nh−ng do bản chất tham quyền cố vị, bảo thủ, những hậu duệ của triều đại ấy hoặc lòng luyến tiếc của nhân dân về một thời hoàng kim của triều đại vừa qua, lại sẵn sàng đứng lên trung h−ng dòng chính thống. Tính chất hỗn dung thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Vai trò của thể loại trong nền văn học Việt Nam trung đại 21 Ngoài tính nguyên hợp, TTCHCHVN còn là thể loại dung chứa nhiều thể loại văn học khác. Biểu hiện rõ nhất là sự ch−a tách bạch rõ ràng giữa bút pháp văn ch−ơng nghệ thuật và khoa học lịch sử, sự đan xen giữa văn xuôi và các thể loại văn học khác nh− thơ, phú, câu đối, và các thể loại hành chính nh− minh, th−, sớ, chiếu, biểu, hịch, văn tế, văn sách, sắc phong Việc xuất hiện đan xen các thể loại nhỏ văn học nghệ thuật và văn học chức năng, công văn hành chính trong TTCH cũng là một trong những đặc điểm để khẳng định TTCHCHVN là tác phẩm văn học. Vận dụng hợp lý các thể loại khác trong một thể loại lớn nh− TTCH thể hiện mục đích của các tác giả là viết văn chứ không phải chép sử. Về ph−ơng diện văn bản, có thể coi đây là khả năng tổng hợp nhiều thể loại ở một thể loại trong việc truyền tải nội dung của tác phẩm văn học. Tiểu thuyết ch−ơng hồi và tính chất ký sự lịch sử Biểu hiện thứ hai của tính hỗn dung thể loại chính là sự giao thoa giữa một ký sự lịch sử với một tiểu thuyết ch−ơng hồi, biểu hiện là tính chất "khảo cứu" t− liệu lịch sử, địa lý về những con ng−ời và địa danh có liên quan đến hoạt động của nhân vật. Trong môi tr−ờng văn học trung đại nói chung, TTCHCHVN nói riêng, các thể loại th−ờng ch−a tách bạch khỏi nhau để đảm trách những nhiệm vụ riêng biệt nh− trong văn học hiện đại. Đấy chính là chỗ phức tạp và khó khăn cho ng−ời nghiên cứu văn học trung đại. Cần nghiên cứu TTCHCHVN trên quan điểm của "văn học vùng" trong "tính hỗn dung thể loại" hoặc nghiên cứu trên quan điểm tính liên văn bản một cách sinh động, để tránh đ−ợc những nhận định áp đặt, khiên c−ỡng. Tiểu thuyết ch−ơng hồi và tính chất liệt truyện Mục đích của tác giả TTCH là kể lại những câu chuyện liệt truyện về những bậc hào kiệt trong quá khứ, nhằm l−u lại chút công tích, làm vẻ vang cho con cháu. Đây cũng chính là sự pha trộn thể loại liệt truyện vào tiểu thuyết. Trong quá trình trần thuật sự kiện, nhân vật lịch sử, các tác giả th−ờng dừng lại để giới thiệu một cách đầy đủ, thậm chí dài dòng, từ đầu đến cuối một cách trọn vẹn về nhân vật mình đang kể. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam - thể loại mang tính lịch sử Bức tranh thể loại văn học trung đại Một thể loại văn học không tồn tại vĩnh hằng tr−ớc sự đổi thay của lịch sử và nhu cầu th−ởng thức nghệ thuật ngày một tiến bộ của con ng−ời. TTCHCHVN cũng nằm trong dòng chảy tự nhiên đó. Từ một nền văn học chỉ có những sáng tác dân gian đến một nền văn học có chữ viết, từ chỗ chỉ có một vài thể loại văn học ban đầu, bằng nhiều con đ−ờng, văn học Việt Nam đã có đủ các thể loại khác nhau, có khả năng phản ánh một cách sâu sắc, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn cũng nh− những sự kiện lịch sử lớn lao của đất n−ớc là một b−ớc đi dài của lịch sử. Sự ra đời của TTCHCHVN một phần là sự tiếp thu từ nền TTCH Trung Quốc, phần nữa do sự hối thúc bên trong cũng nh− nhu cầu tự thân của nền văn học. Do đó, thể loại này vừa chịu ảnh h−ởng đậm nét của những tiểu thuyết nổi tiếng của văn học cổ điển Trung Quốc vừa mang bản sắc của văn xuôi Việt Nam trung đại. Trong vai trò một thể loại trung tâm của nền văn học, TTCHCHVN đã hoàn thành đ−ợc nhiệm vụ của mình trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động. Một nền văn học lớn không thể không có những thể loại văn học lớn. Đấy là lý do thể loại TTCHCHVN cần đ−ợc tôn vinh và nghiên cứu kỹ càng. 23 Sứ mệnh lịch sử của tiẻu thuyết ch−ơng hồi trong văn học Việt Nam trung đại Với những vấn đề lịch sử lớn lao của dân tộc trong suốt 5 thế kỷ, dung l−ợng của những bài thơ tứ tuyệt, thơ thất ngôn bát cú, hay lớn hơn nữa là những tác phẩm diễn ca vài nghìn câu thơ hoặc những truyện thơ bằng văn vần đã không đủ sức truyền tải những nội dung ấy. Hơn nữa, theo quan niệm "Văn dĩ tải đạo", để tuyên truyền cho t− t−ởng trung quân, t− t−ởng thiên mệnh, tôn phò chính thống, ca ngợi các bậc khai quốc hoặc thể hiện những t− t−ởng triết học phức tạp và lớn lao của lịch sử dân tộc, thì TTCH viết bằng chữ Hán là một sự lựa chọn hợp lý đối với các tác giả văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy số l−ợng không nhiều nh−ng hầu hết các tác phẩm đều có chỗ đứng, có đóng góp trong tiến trình văn học sử và hơn thế nữa, đánh dấu sự tr−ởng thành của văn xuôi tiểu thuyết Việt Nam. Dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải thừa nhận sự có mặt và những đóng góp quan trọng của TTCHCHVN trong việc hoàn thiện bức tranh văn học Việt Nam trung đại. Chính thể loại này đã tạo nên diện mạo mới cho nền văn học Việt Nam trung đại, gánh vác vai trò phản ánh những vấn đề lớn lao của lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày nay, TTCHCHVN đang là nguồn cứ liệu vô cùng quí báu đối với các nhà nghiên cứu văn học và sử học, văn hóa học về giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX. Những giới hạn của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam Bên cạnh những thành tựu, TTCHCHVN vẫn còn những giới hạn, trong đó có giới hạn về phạm vi đề tài, đối t−ợng phản ánh, trình độ nghệ thuật... Thành công của thể loại TTCHCHVN đã đ−ợc khẳng định nh−ng không có nghĩa đã đạt đến độ hoàn mỹ. Trong khi quá chú tâm vào vấn đề lịch sử dân tộc, miêu tả những biến động chính trị, những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, giải thích những thành công và thất bại của các triều đại, TTCHCHVN đã bỏ qua những đề tài liên quan đến đời sống tâm lý của con ng−ời, những đề tài đã rất thành công ở các thể loại văn vần. Dù muốn hay không, các tác giả TTCHCHVN vẫn chịu ảnh h−ởng sâu sắc bởi t− t−ởng thiên mệnh của Nho giáo, bởi lòng tự tôn dòng họ, triều đại đã làm nên niềm tự hào họ đang thể hiện. Khái niệm dân tộc, tổ quốc không phải lúc nào cũng đ−ợc đề cao. Có nơi có lúc, lợi ích của triều đại, của dòng tộc đ−ợc đặt cao hơn lợi ích quốc gia. Đây chính là hạn chế của thời đại, bởi phần lớn các tác giả là nhà Nho và vì thế, t− t−ởng trung quân đ−ợc coi là phẩm chất cao đẹp nhất. Tóm lại, kết cấu ch−ơng hồi đã làm nên một kiểu cấu trúc tác phẩm rất đặc tr−ng của văn xuôi Việt Nam trung đại, đã làm nên sự khác biệt so với chính sử và đặc biệt là sự tiến bộ v−ợt bậc trong nhận thức của các tác giả văn học Việt Nam trung đại về vai trò của văn học nghệ thuật. Từ sự vay m−ợn mô hình tác phẩm đến sự hiện đại hóa cách xây dựng kết cấu từng hồi, quyển, cách đặt tên hồi, tiết, cách gọi tên nhân vật hoặc đ−a vào tác phẩm những t− t−ởng tiến bộ, TTCHCHVN đã từng b−ớc hoàn thiện mình trên cấp độ một thể loại văn học. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đ−ợc nhìn nhận trên ph−ơng diện một thể loại văn học, tr−ớc tiên là căn cứ trên bình diện hình thức. Sự rạch ròi này không làm mất đi tính gắn kết nội dung trong những đơn vị văn bản tác phẩm cụ thể, mà giúp hiểu sâu thêm những tầng nghĩa của nội dung khi căn cứ trên bình diện hình thức. Để phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử dân tộc phải có những thể loại t−ơng ứng. Trong bối cảnh của văn học trung đại, TTCH là một lựa chọn đúng đắn của các 25 tác giả văn học. Không có thể loại văn học nào có khả năng dung chứa trong lòng nó nhiều thể loại khác nh− tiểu thuyết. Có thể nói, TTCHCHVN là thể loại hạt nhân của nền văn học Việt Nam trung đại. Đặc điểm này cũng nhấn mạnh tính chất bất phân của nền văn học trung đại Việt Nam, văn học nghệ thuật đích thực ch−a thoát khỏi sự chi phối của những thể loại văn học chức năng hành chính. Kết luận 1. Lý luận văn học bao giờ cũng có mặt sau sáng tác, làm nhiệm vụ đánh giá, tổng kết, trên cơ sở đó đ−a ra những dự báo, định h−ớng cần thiết cho sáng tác. Đối với thể loại tiểu thuyết, d−ờng nh− công việc đó của lý luận văn học vẫn còn những khó khăn. Bởi vì, khái niệm cũng nh− những quan niệm về thể loại này ở trong n−ớc cũng nh− trên thế giới ch−a thực sự ổn định và xem ra vẫn còn nhiều vấn đề phải nghiên cứu. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng của mình và kết thúc vai trò vào những năm đầu thế kỷ XX, khi thể loại tiểu thuyết hiện đại có nguồn gốc từ ph−ơng Tây xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và những tranh luận về thể loại này vẫn ch−a kết thúc, khi nhận thức về những vấn đề nh− khái niệm, đặc tr−ng và vai trò thể loại trong tiến trình phát triển còn ch−a thống nhất. Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, luận án đã hoàn thành mục đích và yêu cầu đặt ra, giải quyết những vấn đề liên quan đến khái niệm, thuật ngữ, nội dung và những đặc tr−ng thể loại của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. 2. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam là thuật ngữ chỉ một nhóm tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của văn học trung đại Việt Nam, có đề tài liên quan đến lịch sử, cấu trúc tác phẩm chia thành hồi, quyển, tiết mang những đặc tr−ng tiểu biểu của văn học trung đại. Đây là thể loại có hình thức và những nguyên tắc sáng tác đ−ợc vay m−ợn từ tiểu thuyết ch−ơng hồi Trung Quốc nh−ng nội dung phản ánh là những vấn đề thuộc về lịch sử Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán là sự ra đời của đội ngũ sáng tác mới, mang đặc tr−ng của loại hình tác giả văn học Việt Nam trung đại. Tác giả tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã thoát khỏi lối ghi chép lạnh lùng, cứng nhắc của sử gia để trở thành những tác giả văn học. Sự dịch chuyển trong điểm nhìn tác giả, từ điểm nhìn sử gia sang điểm nhìn tác giả tiểu thuyết đã đem lại một cách tiếp cận mới đối với những vấn đề của lịch sử. Đây cũng là sự thay đổi ý thức của đội ngũ sáng tác văn học trung đại, tạo nên những tác giả, có ý thức sáng tác văn ch−ơng chứ không chỉ là những ng−ời chi chép lịch sử, ý thức coi trọng văn ch−ơng nghệ thuật cao hơn lịch sử đ−ợc nâng lên một b−ớc. 3. Nhân vật và sự kiện là hai yếu tố quan trọng tạo nên nội dung của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Nhân vật trong tác phẩm tiểu thuyết ch−ơng hồi phần nhiều lấy nguyên mẫu từ lịch sử. Dù đ−ợc sáng tạo ít nhiều nh−ng nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam vẫn ch−a thoát khỏi những công thức vốn là nguyên tắc sáng tác của văn học trung đại. Tuy nhiên, có những nhân vật đã đạt đến trình độ điển hình, để lại ấn t−ợng sâu sắc trong tâm trí ng−ời đọc. Sự sáng tạo nhân vật trong tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã đem đến một cách nhìn mới mẻ, sinh động về các nhân vật lịch sử. Đây là sự chuẩn bị cho kiểu nhân vật trong thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện đại ngày nay. Có một điểm đáng chú ý là sự 27 tham gia của tác giả trong vai trò một nhân vật. Tác giả viết về mình nh−ng không phải là một câu chuyện tự thuật mà đ−ợc kể một cách tự nhiên nh− những nhân vật khác. Điểm này, khiến tác phẩm tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam mang tính chất của những ký sự lịch sử. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam là một cách "viết sử" mới của các tác giả văn học trung đại. Chính vì vậy, thể loại này vẫn còn nặng tính chất của những ký sự lịch sử. Tác giả ch−a chú trọng đến việc miêu tả nội tâm nhân vật mà chỉ chú tâm đến việc cung cấp và miêu tả các sự kiện lịch sử, khiến cho ng−ời đọc có cảm giác bị ngợp trong biển sự kiện. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam có nhiều trang viết gây đ−ợc ấn t−ợng đối với ng−ời đọc, chính là những trang viết về những cuộc biến đổi sơn hà, những trận chiến chống giặc ngoại xâm. Đó thực sự là những mốc son chói lọi trong trang sử chiến tranh giữ n−ớc của nhân dân Việt Nam. 4. Không gian và thời gian nghệ thuật là một trong những đặc điểm đáng chú ý của nghệ thuật tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Trên bình diện thời gian, có hai cách thức thể hiện Thời gian tuyến tính biên niên, xâu chuỗi sự kiện căn cứ trên trục dọc kinh và thời gian dồn nén, đồng hiện sự kiện theo trục ngang vĩ. Trên bình diện không gian, có hai kiểu không gian Không gian gắn với sự kiện lịch sử và không gian gắn với nhân vật lịch sử. Đây là một đặc điểm quan trọng của thể loại, nó thể hiện khả năng lựa chọn và nghệ thuật trình bày sự kiện và nhân vật lịch sử, phục vụ cho nội dung đề tài của tác phẩm. Sự thay đổi cách trình bày sự kiện và nhân vật trong không gian và thời gian theo t− duy tiểu thuyết là một b−ớc tr−ởng thành của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Khác hẳn lối ghi chép theo đ−ờng thẳng của khoa học lịch sử. 5. Kết cấu ch−ơng hồi đã làm nên một nét đặc tr−ng của nghệ thuật kể chuyện lịch sử của văn học Trung Quốc và Việt Nam. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng trên tiến trình phát triển của văn xuôi Việt Nam nói chung, thể loại tiểu thuyết nói riêng. Mức độ thành công ở từng tác phẩm cụ thể không giống nhau nh−ng tiểu thuyết ch−ơng hồi đã thể hiện đ−ợc vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ cấu thể loại của nền văn học trung đại. Đồng thời tạo tiền đề cho sự tiếp thu một loại hình tác phẩm mới có xuất xứ từ ph−ơng Tây. Tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán là sản phẩm mang tính nguyên hợp, một quy luật hỗn hợp là đặc tr−ng nổi bật của văn học trung đại. Đặc tr−ng này phản ánh hiện t−ợng khối l−ợng tri thức xã hội ch−a phong phú tới độ phải chia tách thành những chuyên ngành hẹp nh− ngày nay. Điều này gây nên sự lúng túng cho ng−ời tiếp nhận không quen nhìn nhận sự vật, hiện t−ợng trong tính nguyên hợp. Hiện t−ợng một tác phẩm đ−ợc quan sát dựa trên nhiều quan điểm không thống nhất, lại bỏ qua một đặc tr−ng cơ bản của thể loại đã tạo nên những tranh luận lâu nay. Tính hỗn dung thể loại là một đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam. Tính chất này biểu hiện khả năng dung chứa trong thể loại lớn nhiều thể loại nhỏ hơn. Nói một cách khác, nó thể hiện vai trò trung tâm theo quan điểm lý luận hiện đại của nền văn học, một thể loại có sức thu hút vào mình những thể loại nhỏ khác. Cùng với tính nguyên hợp, tính hỗn dung thể loại phản ánh tình trạng ch−a thoát khỏi sự chi phối của những thể loại văn học chức năng trong văn học nghệ thuật. 6. Dù chỉ tồn tại trong khoảng thời gian gần ba trăm năm nh−ng tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã chứng minh đ−ợc vai trò không thể thiếu trong tiến trình 29 phát triển của văn xuôi Việt Nam nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Từ một nền văn học chỉ có sáng tác văn học dân gian và chủ yếu là những sáng tác văn vần, đến việc có tiểu thuyết ch−ơng hồi, một thể loại có đủ sức đảm đ−ơng những nhiệm vụ lớn lao của lịch sử, là một b−ớc tiến dài. V−ợt qua những thăng trầm, tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam đã và đang là nguồn t− liệu quý cho các nhà nghiên cứu lịch sử và văn học. Dù còn một vài giới hạn trên một số ph−ơng diện nh−ng tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam là minh chứng cho sự nhạy bén của tác giả văn học trung đại trong việc vay m−ợn hình thức thể loại của n−ớc ngoài. Ng−ời đời ít có cơ hội đọc chính sử, sở dĩ hiểu đ−ợc những nét khái quát của lịch sử là nhờ những tác phẩm dã sử, trong đó có tiểu thuyết ch−ơng hồi. Thể loại này trở thành niềm tự hào của những ng−ời quan tâm đến văn xuôi Việt Nam trung đại nói chung, tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán nói riêng. 7. Từ những kết quả đạt đ−ợc, chúng tôi cho rằng còn nhiều vấn đề liên quan đến tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán Việt Nam cần đ−ợc nghiên cứu một cách kỹ l−ỡng trên những h−ớng đi mới. Trong đó, có thể quan tâm nghiên cứu, so sánh tiểu thuyết ch−ơng hồi chữ Hán giữa các n−ớc trong khu vực nh− Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Triều Tiên Hàn Quốc, Việt Nam - Nhật Bản và khảo sát tổng thể loại hình tiểu thuyết ch−ơng hồi khu vực Đông á. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, sự giao l−u văn học, văn hóa giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng thì việc nghiên cứu mối quan hệ thể loại giữa các nền văn học là một h−ớng đi đúng đắn, là cách chúng ta nhìn nhận vị trí của nền văn học Việt Nam trên bản đồ văn học khu vực và thế giới. Các file đính kèm theo tài liệu nàythe_loai_tieu_thuyet_ Tác giả Vũ Thế Khôi Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần cuối thế kỷ thứ III TCN chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam. Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên “Năm 33 tức 214 TCN – Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”. Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam”. Sử ký Tư Mã Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần thì e chỉ là võ đoán. Vì vấn đề lại có ý nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung-Việt, nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt”, họp ở Thâm Quyến 19-21/12/2003, chúng tôi đã dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ý kiến tranh luận, đó là 1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên không thể gọi là truyền bá! khẩu ngữ tức tiếng Hán, thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán; 2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc 207-111 TCN, 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc 208-179 TCN của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay . Chứng minh ý kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau Theo chính Hán thư thì Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quý Châu, như vậy thì trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt Phúc Kiến, Quảng Đông, Dương Việt và Tây Âu Việt Quảng Tây và một phần Quý Châu, nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt tức nước Âu Lạc của An Dương Vương. Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế 140-86 trước CN đem quân vào đất Việt, đã miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt Lạc Việt? – như sau “Đời Tần sai quan uý Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” . Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần còn thê thảm hơn “Trong 3 năm không cởi giáp dãn nỏ… Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người”. Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên “không cởi giáp dãn nỏ”, bị thảm bại chủ tướng bị giết, sĩ tốt thì phơi thây; 8 năm sau, 206, nhà Tần đã diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán? Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá được dạy và học có chủ định từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là a sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa ở triều đình trung ương và người Việt ở phủ, huyện, làng xã. b Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt. Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó dùng Lữ Gia mà chínhSử ký Tư Mã Thiên gọi là “Việt nhân” đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý Bôn Nam Đế – và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương”. Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt trong thư dâng Hán Văn Đế 179-156 trước CN ông viết “Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoã tóc, ngồi chò hõ tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán! “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!. Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ Lã là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt. Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” . Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống 1075-1077 khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…”, tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược. Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia nay là phố Lê Ngọc Hân. Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ 1726-1780 viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ nay là Đường Xâm huyện Chân Định có miếu thờ Triệu Đà…” Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương “Tỉnh Thái Bình” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”. Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm. Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang =Lĩnh nam chi quang, họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương chắt của Triệu Đà con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán… “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc…”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán…; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ Đại Việt sử ký toàn thư ghi “mẹ” – là người Việt, làm vua…, đem quân đánh bọn Thiên Thu tướng nhà Hán, diệt được họ cách Phiên Ngung nay là Quảng Châu 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu” chúng tôi nhấn mạnh – . Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được lòng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” . Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt. Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần TK XII-XIII chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê Đại Hành, Lý. An Nam chí lược đầu TK XIV, do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” “Triệu thị thế gia” ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố Xét như nước Đại Việt ta, Thực là một nước văn hiến. Cõi bờ sông núi đã riêng, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược viết 1919, in 1921 mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt. Nếu Quang Trung không mất sớm thì sẽ ra sao nhỉ? Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đã an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đã xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đã nói rõ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuý từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy. Nguồn Tạp chí Xưa và Nay số 256 tháng 8/2006 & Talawas Chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và văn học viết tiếng Việt Trần Đình Sử Tiếng nói, chữ viết văn tự có mối quan hệ vô cùng mật thiết với văn học. Những thứ tiếng mà không có chữ viết đi kèm, không có tác phẩm văn học để ngưng kết thành những kiệt tác ngôn ngữ, sống trong tâm hồn người đời, thì sẽ có nguy cơ bị diệt vong. Theo tài liệu Bản đồ ngôn ngữ đang lâm nguy của tổ chức văn hóa khoa học giáo dục của Liên hiệp quốc UNESCO cho biết toàn thế giới có 7000 thứ tiếng, trong đó một nửa sẽ bị tiêu vong trong thế kỉ này. 80-90% số còn lại sẽ tiêu vong trong vòng 200 năm nữa. Tốc độ tiêu vong của ngôn ngữ còn nhanh hơn tốc độ diệt chủng của các loại thú quý hiếm trên trái đất. Cứ hai tuần trôi qua, trên thế giới có một ngôn ngữ diệt vong. Nhà ngữ học Mĩ David Harrison cho rằng ngôn ngữ là di sản giá trị hơn nhiều so với các di sản mắt thường ai cũng thấy như Kim Tự tháp, rừng Amazon…, bởi nó là di sản của nhân loại, trong đó kết tinh phương thức tư duy, phương thức tồn tại và kinh nghiệm sống của một tộc người. Tiếng nói chết chủ yếu do người nói ít dần, người nói thứ tiếng đó nói thứ tiếng khác nhiều hơn, do không có văn tự ghi lại, do không có tác phẩm văn học để đời. Văn học viết của bất cứ dân tộc nào đều hình thành trên cơ sở tiếng nói, chữ viết của tiếng đó, do đó việc sử dụng chữ viết có ảnh hưởng trực tiếp rất to lớn đến sự hình thành văn học viết dân tộc. Đối với nhiều nền văn học phương Tây, trong suốt thời kì trung đại, dưới sự thống trị của tiếng Latinh, văn học viết bằng tiếng dân tộc chưa xuất hiện. Phải đến thời Phục Hưng, A. Dante 1265 – 1321bắt đầu dùng tiêng Ý để sáng tác Thần Khúc, Người Anh với G. Chauser 1343 – 1400 dùng tiếng Anh sáng tác, M. Opitz 1597 – 1639, H. Grimmelhausen 1621 – 1676 dùng tiếng Đức dể sáng tác, từ đó mới bắt đầu văn học dân tộc các nước đó. Điều thú vị là cũng vào thế kỉ XV ở Việt Nam Nguyễn Trãi 1380 – 1442 đã mở đầu tập thơ bằng tiếng Việt, đánh dấu thời điểm ra đời của văn học Việt, phân biệt với văn học chữ Hán cũng vào một thời điểm với các nền văn học phát triển ở châu Âu. Tuy nhiên, từ tác phẩm đầu tiên đến sự hình thành đầy đủ các thể loại văn học dân tộc phải trải qua một chặng đường rất dài, trải qua nhiều thế kỉ, trong đó chữ viết đóng vai trò cực kì quan trọng. Mọi người đều biết, văn học Việt Nam hình thành đầu tiên bằng chữ Hán, một ngôn ngữ không phải của người Việt. Giai đoạn hai mớí xuất hiện văn Nôm với chữ Nôm, mãi đến cuối thế kỉ XIX mới hình thành văn quốc ngữ hiện đại nhờ có chữ quốc ngữ. Các giai đoạn phát triển văn học ấy đều dựa vào sự xác lập chữ viết. Chúng ta đã di thực toàn bộ ngữ văn Hán làm thành văn viết Việt Nam, từ ngôn ngữ, hệ thông thể loại văn bản, từ thể thức cấu tạo, phương thức tu từ cho đến hành văn, từ thể loại hành chính đến thể loại văn chương học thuật, thi, phú, làm thành nền văn học chữ Hán Việt Nam. Dĩ nhiên đó là quá trình hình thành dần dần qua các triều đại .Bài văn chữ Hán sớm nhất được coi là bài Bạch vân chiếu sơn hải của Khương Công Phụ, sau có người khẳng định là bài Nam quốc sơn hà, tương truyền của Lí Thường Kiệt, gần đây theo khảo chứng mới, có căn cứ khẳng định sớm nhất là bài Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận 915 – 990, thế kỉ thứ X[1]. Còn văn học Nôm, hình thành trên cơ sở chữ Nôm, một thứ chữ, theo Nguyễn Tài Cẩn, hình thành vào cuối đời Trần, theo Nguyễn Quang Hồng, hình thành không thể muộn hơn thời nhà Lý thế kỉ XII . Thế nhưng văn học Nôm thật sự, được thể hiện qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi phải đến ba thế kỉ sau, thế kỉ XV mới xuất hiện. Ba thế kỉ sau, thế kỉ XVI, trên cơ sở tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, xuất hiện bản dịch ra chữ Nôm tương truyền của Nguyễn Thế Nghi, có thể coi là bản văn xuôi chữ Nôm đầu tiên trong văn chương Việt Nam. Từ thế kỉ XVI, trải qua rất nhiều quanh co, khúc khuỷu trong năm thế kỉ, phải đến đầu thế kỉ XX, với sự sử dụng chính thức chữ Quốc ngữ, thì văn học Việt Nam hiện đại nói chung và văn xuôi tiếng Việt nói riêng mới thực sự hình thành. Ở đây vai trò chữ viết hết sức quan trọng. Tại sao thơ Nôm phú Nôm phảt triển mà văn xuôi chữ nôm không phát triển? Đã ai nghiên cứu vấn đề này chưa? Sự hình thành văn học viết không đơn giản chỉ là có chữ viết rồi thì văn học viết tự nhiên xuất hiện theo chữ viết ấy, hay nói cách khác không phải chữ viết ghi nguyên xi lời ăn tiếng nói hàng ngày là có ngay văn học viết. Văn học viết như một hình thái biểu đạt, phân biệt với lời ăn tiếng nói khẩu ngữ hàng ngày và văn học truyền miệng. Văn viết phải hình thành trên cơ sở hệ thống chữ viết, mà sự hình thành chữ viết lại phải trên cơ sở hệ thống ngữ âm hình thành quy củ. Thế nhưng, tiếng Việt thời kì thế kỉ X – XII, theo các nhà ngôn ngữ học thuộc vào giai đoạn sơ thuỷ sau khi tách khỏi tiếng Việt Mường chung không lâu để trở thành thứ tiếng độc lập. Trạng thái sơ thuỷ thể hiện ở chỗ chưa hình thành cơ chế đơn tiết triệt để và chưa có đủ sáu thanh.[2] Do đó Văn học viết phải hình thành sau chữ viết một thời gian, bởi vì nó phải được mài giũa bằng văn tự, tạo thành quy tắc, thể thức thì mới thành văn học viết được. Chữ viết không phải chỉ là phương tiện ghi âm tiếng nói, không chỉ là phương tiện cố định lời nói, khắc phục tình trạng lời nói gió bay, làm cho lời nói được bảo tồn, mà còn là một phương thức tồn tại khác của ngôn ngữ. Nó làm cho văn viết tách khỏi tiếng nói phát ra âm thanh, khẩu ngữ, một tiếng nói không bao giờ tách khỏi âm thanh to nhỏ, ngữ điệu nói, nét mặt, động tác tay chân, ánh mắt…của người nói và ngữ cảnh cụ thể, tách khỏi không thời gian cụ thể để trở thành ngôn ngữ thuần tuý và có khả năng giao tiếp với muôn đời. Ngay văn quốc ngữ buổi đầu của Nam Bộ rất là quý giá, song sang đầu thế kỉ XX nói chung người ta không viết như thế nữa. Với chữ viết ngôn ngữ được trừu tuợng hoá khỏi người nói và người nghe cụ thể, được tự tổ chức thành văn bản, cô đọng, chuẩn hoá, phong phú thêm với những tín hiệu và phương tiện chỉ có trong văn viết. Có văn tự để viết thành văn bản thì mới có phần mở đầu, chuyển mạch, phần kết thúc. Lời nói khẩu ngữ chưa có các thành phần ấy một cách rõ rệt. Tất nhiên văn viết không tách khỏi mối dây liên hệ với ngôn ngữ khẩu ngữ hàng đó là nguồn sáng tạo vô tận. Hán văn là một tử ngữ, giống như tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Nga cổ. Cho nên người Việt tiếp nhận và bảo lưu nguyên vẹn hình thức biểu đạt của nó, và người dùng buộc phải học thuộc nhập tâm,rồi tự mình viết theo mẫu sẵn, sự sáng tạo rất hiếm. Chỉ những bậc đại khoa uyên thâm mới có năng lực Hán sang Việt Nam trở thành tiếng Hán Việt, khác hẳn với Văn ngôn ít nhất là về âm đọc. Điều thú vị là trong khi văn ngôn đổi thay theo sinh ngữ của người Tàu, tiếng Hán Việt Việt Nam vẫn bảo lưu các âm cổ. Thơ ca Trung quốc cổ đại gieo vần theo âm cổ, đến người Trung Quốc hiện đại đọc thơ cổ của họ thì xảy ra tình trạng sai vần. Nhưng thơ ca Hán Việt với âm Hán Việt cổ, vẫn gieo vần theo nguyên điệu, không hề sai, do bảo lưu âm cổ du nhập vào từ đời nhà Đường. Với thứ chữ đó người Việt không thể tạo ra bất cứ thể loại nào mới so với văn học chữ Hán của người Hán.. Chữ Nôm được sử dụng trong hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng không được phát triển, bởi không có trường dạy chữ Nôm, Mà muốn hiểu Nôm buộc phải thạo chữ Hán, bởi vì chữ Nôm cấu tạo chủ yếu bằng các thành phần Hán. Để có các thể loai văn Nôm, văn viết đòi hỏi có thể thức. Sở dĩ Văn Nôm hình thành trước hết ở thơ ca là bởi vì lời thơ có âm luật và cấu trúc song hành của ngôn ngữ gián cách, như cái khuôn để người làm thơ lắp chữ vào. Tất nhiên Nguyễn Trãi làm thơ lục ngôn có nhiều khác biệt so với thơ chuẩn của thơ chữ Hán, song sự đó rất hiếm , về sau người ta vẫn theo lệ cũ. Các thể loại truyện Nôm, ngâm khúc, hát nói là sáng tạo đột xuất của người Việt nhờ có chữ Nôm. Văn xuôi Nôm trái lại phát triển chậm chạp, bởi văn xuôi đòi hỏi hành văn liên tục, phi gián đoạn, đòi hỏi những thể thức khác với văn vần, thơ ca. Chỉ cần đọc bản dịch Nôm của Nguyễn Thế Nghi thì thấy cách hành văn xuôi chưa hình thành, Việt Hán lẫn lộn, do từ vựng chưa đầy đủ. Có ý kiến cho rằng trong lĩnh vực hành chính có lẽ do thiếu chuẩn mực thống nhất của chữ Nôm, bất tiện trong quản lí, kém ưu thế so với chữ Hán. Nhưng thiết nghĩ đó chỉ là một lí do. Chưa định hình thể thức mới là lí do chính. Bản văn của Nguyễn Thế Nghi chỉ là văn dịch, chuyển nghĩa từ Hán sang Việt, mức độ lệ thuộc vào bản Hán văn rất cao, đọc lổn nhổn, tối nghĩa là một minh chứng cho sự thiếu hụt về thể thức câu văn và tổ chức liên kết các câu văn và từ ngữ để thành văn bản. Thực tế này cũng có thể nhìn thấy qua một số văn bản văn bia bằng chữ Nôm, trong đó ảnh hưởng của văn vần vẫn rất lớn, và ảnh hưởng này kéo dài cho tới đầu thế kỉ XX. Đối với các tài liệu sử Việt, hoặc là viết bằng văn xuôi chữ Hán, hoặc là viết bằng thể văn vần để thành diễn ca, đó là vì các tác giả Việt Nam lại chuyển sang diễn ca như Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm cho dễ thuộc và dễ đọc. Người Việt lúc ấy cũng chưa biết đọc văn xuôi. Đó là vì thể thức diễn ca đã sớm định hình. Văn xuôi chỉ có được hình thức độc lập khi nào tạo được thể thức độc lập, trong đó câu văn xuôi trần thuật, biểu cảm, nghi vấn, câu điều kiện, câu giả thiết, câu mệnh lệnh hình thành, có vị trí độc lập. Chữ quốc ngữ do các cha cố Bồ Đào Nha , Pháp sang truyền đạo từ thế kỉ XV, chữ quốc ngữ được sáng tạo vào khoảng thế kỉ XVII và lưu hành trong giáo hội và giáo dân. Theo Nguyễn Huệ Chi, các cha cố Việt, các tầng lớp thông ngôn đã bước đầu sử dụng chữ Nôm để viết thư, viết truyện các thánh, ví như sách Quan quang Nam Việt, gồm 2 tập được viết dần dần từ thế kỉ XVII, rồi được cha cố sửa chữa, phiên âm, đem in năm 1902. Trong đó ngôn ngữ thuần Việt, trong sáng theo lời nói hàng ngày, không dùng các hư từ Hán Việt, lại còn dùng khẩu ngữ. Rõ ràng loại văn quốc ngữ này đã làm mẫu và lan ra ngoài giới thiên chúa giáo. Nhà văn Trương Vĩnh Ký là người vừa công giáo vừa viết văn quốc ngữ là một minh chứng cho sự lan toả của văn xuôi công giáo sang văn xuôi tiếng Việt. Do tính ưu việt, và chính sách của Pháp muốn dạy chữ quốc ngữ, song họ vẫn không bỏ chữ Hán, chỉ bỏ khoa cử. Các nhà cách mạng Đông Kinh nghĩa thục vì mục đích cách mạng đã cổ xuý học chữ quốc ngữ. Rồi báo quốc ngữ đã xuất hiện sớm từ 1865, đã làm cho người đọc quen với quốc ngữ, văn quốc ngữ. Trong việc thay đổi này, nhất là sự hình thành nền văn xuôi mới, yếu tố văn Pháp có vai trò không nhỏ. Mọi người biết tiếng Pháp dĩ nhiên có quan niệm về câu cú, về ngữ pháp, tạo thành ý thức về ngôn ngữ. Họ biết phân biệt chữ ghi âm, biết tri thức ngôn ngữ. Chính ý thức này thúc đẩy văn xuôi quốc ngữ phát triển. Sự hình thành nền văn xuôi Nam Bộ là một thành tựu to lớn, nó kích thích dòng văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỉ XX phát triển. Tiểu thuyết tiếng Việt và thơ ca tiếng Việt quốc ngữ, văn chính luận, báo chí quốc ngữ đều là thành tựu đột xuất. Song song với chữ quốc ngữ, giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là giai đoạn xã hội Việt Nam biến động lớn. Không chỉ có Pháp với người Việt, mà Trung Quốc cũng đang biến động lớn. Phong trào duy tân xuất hiện cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam, sự tiếp nhận ồ ạt hàng loạt từ ngữ mới của Nhật Bản, những từ mà người Nhật dùng yếu tố Hán, hoặc từ Hán có sẵn để dịch các thuật ngữ, danh từ phương Tây. Cho nên vốn từ xã hội, chính trị, triết học, văn hoá, quân sự, y học, giáo dục, khoa học ồ ạt được tiếp nhận. Đây là thời kì tiếp nhận tiếng Hán Nhật nhiều nhất, đồng thời sử dụng lại từ Hán Việt đã biết. Trước khi chưa có chữ quốc ngữ, chữ Hán và chữ Nôm cũng không hoàn toàn tách biệt. Xem Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều để xem tỉ lệ tiếng Việt và tiếng Hán Việt được sử dụng là bao nhiêu. Rồi đem so với văn xuôi , văn báo chí, văn chính luận thời đầu thế kỉ, xem tỉ lệ tiếng Việt và tiếng Hán Việt bao nhiêu thì có thể kết luận được các giai đoạn tiếp nhận từ Hán Việt truyền thống và từ Hán Việt gốc Nhật. Đồng thơi đây cũng là thời gian tiếng Việt tự cải tạo mình. Biết bao nhiêu khái niệm mới, từ mới phải được gọi tên, và do đó, người Việt sẽ dùng các yếu tố Hán Việt để tạo từ Việt mới, hoặc sử dụng từ Hán Việt theo nghĩa riêng của tiếng Việt, mà tiếng Hán không có. Ví dụ ta nói chiến tranh ác liệt, từ ác liệt chỉ sự dữ dội, sự tàn khốc, trong khi đó trong tiếng Hán từ ác liệt nghĩa là xấu xa, đê tiện. Từ tử tế, người Hán hiểu là tinh vi, chi li, thì người Việt hiểu là có thái độ tốt. Loại từ này rất nhiều mà chưa được nghiên cứu. Đáng buồn là giới ngôn ngữ học có một thời gian dài chỉ nói áng chừng từ Hán Việt chiếm 60 – 80% từ vựng Việt, mà không có chứng minh gì cả. Gần đây Viện ngôn ngữ học có đề tài nghiên cứu Từ ngữ Hán Việt, tiếp nhận và sáng tạo 2018, đã khẳng định dứt khoát tỉ lệ từ Hán Việt trong tiếng Việt chỉ khoảng 30 – 35%. Sự phát triển của tiếng Việt gắn bó với chữ viết. Sự chính xác của chữ quốc ngữ vượt xa lối ghi âm của chữ Nôm. Chữ viết làm cho số người sử dụng trở nên đông đúc, cơ hồ toàn thể xã hội, trong khi chữ Hán và chữ Nôm, ngay ơ thời Trung đại, chỉ lưu hành trong một bộ phận rất nhỏ dân cư, vị thế đó không thể làm cho chữ Nôm phát triển. Nếu có số thống kê người học chữ Hán trên số người dân đương thời thì vấn đề này được chứng minh rõ ràng. Người ta thường chỉ thấy chữ quốc ngữ ghi tiếng nói hàng ngày mà không thấy thứ chữ đó đã làm cho gần như toàn dân đều đọc được, viết được. Và các phong trào chính trị xã hội, văn hoá co tác động lớn đến phong phú vốn từ và cách diễn đạt. Không chỉ đầu thế kỉ XX, mà hầu như suốt thế kỉ chúng ta vẫn tiếp tục tiếp thu từ Hán Việt. Sau năm 1954 chúng ta tiếp thụ một loại từ Hán mới. Những liệt xa viên, liệt xa trưởng, những thủ trưởng, chuyên chính vô sản, đại táo, tiểu táo, uỷ viên trung ương, bộ chính trị, tập huấn, chỉnh huấn, tố khổ…đều tiếp thu trong phong trào cách mạng vô sản. Trong số đó có nhiều từ đã và sẽ lại chữ Nôm tuy rất tuyệt với, ghi được những áng văn bất hủ của dân tộc, song nó không làm cho tiếng Việt phát triển, vì người sử dụng nó chỉ giới hạn trong một tầng lớp có học. Mà người học thuở ấy còn rất ít.. Chỉ chữ quốc ngữ, một thứ chữ ghi âm đích thực, mới có tác dụng thúc đẩy toàn xã hội tham gia đóng góp, sử dụng tiếng Việt trong vận hội mới, thời đại mới. Chữ viết gắn bó với vận mệnh của văn học, điều này đã được lịch sử chứng minh. Ngoại trừ nhà chuyên môn, toàn dân mà trước hết là toàn bộ học sinh các cấp phổ thông không nhất thiết trở lại học thứ chữ chỉ có chức năng sử dụng hẹp. Đây là lúc cần nghiên cứu kí lưỡng vốn từ Hán Việt để dùng yếu tố Việt và Hán Việt mà làm phong phú cho tiếng Việt hiện đại, thay vì sử dụng tiếng Anh tràn lan như hiện nay trên đài truyền hình và trên báo chí. Ngoài ra tôi muốn nhấn mạnh điểm này. Những người biết chữ Hán và dịch sách Hán ra tiếng Việt nói chung đều chưa hay, vì họ bị lệ thuộc quá nhiều vào từ Hán mà họ dễ phiên âm, làm rối thêm tiếng Việt, văn dịch kém trong sáng. Trong khi đó khi dịch các văn bản tỉếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga do không có chỗ dựa dẫm, họ phải tự mình vắt óc sáng tạo, và quả nhiên họ dịch đọc hay hơn, sáng tạo hơn. Tất nhiên các bản dịch tiếng Anh tiếng Pháp cũng có nhiều thảm hoạ, song đó là do lí do cá nhân, chứ không do một thứ tiếng. Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 2016. [1] Bùi Duy Tân. Khảo và luận một số tác giả tác phẩm văn học trung đại Việt Nam. , tập một, nxb GD, Hà Nội, 1999, tr. 7 – 12. [2] Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, nxb. Giáo dục, 2008, tr. 131 và các trang khác. Trong cuốn sách này Nguyễn Quang Hồng đã phân tích trạng thái chữ Nôm trong bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, chỉ ra tình trạng dùng hai kí tự chữ Hán để ghi một từ tiếng Việt. khá phổ biến. Với hình thái chữ Nôm ấy thiết nghĩ người ta chưa thể dùng để làm thơ luật năm chữ hay bảy chữ được. Chỉ khi đã có một chữ ghi một tiếng như tiếng Hán thì người ta mới làm thơ luật được. Đến Quốc âm thi tập tình trạng ấy đã thay đổi, tình trạng một chữ ghi bằng hai kí tự đã giảm thiểu căn bản, chỉ còn lại một số rất ít, như tác giả đã chỉ ra, như câu Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn, “Bà ngựa” thực ra là hai kí tự ghi một từ “Ngựa”.

văn học chữ hán việt nam