Em gái đẹp vú to thủ dâm bóp vú. Em gái đẹp vú to thủ dâm bóp vú Bóp Vú Em Gái, Đang thủ dâmcho người yêu thì mẹ gọi, Vú đẹp nhìn ngon quá, Em xinh quá nhìn là muốn địt tung lồn Full: 18CAM.LIVE, Gái gọi vú to Thanhlaudotcom livetream, em show vu, 2k1 Quảng trị thủ dâm, Học sinh thủ dâm khi đi học về, full clip tại Bóp vú Vu To Thu Dam XXX Videos. [01:03] Em gái da trắng_nõn với cặp vú to, dáng ngon tự sướng vớicu giả. Bản đầy đủ: bblink.com datrangveuto. [01:30] Gái tây vúto ngực đẹp thủ dâmvìnứng. Link full link1s.comCfx2Y14R. [00:19] Em gái da trắng,_lồn múp tựsướng rên cực phê. Xem full tại: _bblink QYPSVVG. Chào mọi người, Jenny đây, hôm nay mình có hứng viết, sẽ thử làm một bài phân tích, nghị luận văn học của lớp 11 nha. Rất mong mọi người sẽ dành thời gian đón đọc và nhận xét để mình hoàn thiện bài biết nhé! Đề bài So sánh điểm giống và khác nhau giữa cảnh thu và tình thu trong ba bài thơ Thu Điếu, Thu Vịnh và Thu Ẩm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến? GIỐNG NHAU Được viết bởi cùng một tác giả Nhà thơ đại tài Nguyễn Khuyến và đều là những kiệt tác viết về mùa thu, thể hiện tình cảm của Nguyễn Khuyến đặc biệt là tình yêu quê hương đất nước. Đều lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm đối tượng để thể hiện vẻ đẹp của mùa thu và con người Mùa thu làng quê Việt được miêu tả thật đẹp nhưng buồn, chữa đựng nỗi niềm và tâm trạng của tác giả trước thời vận. KHÁC NHAU - Vị trí đón nhận + Thu Ẩm Tầng thấp + Thu Vịnh Tầng cao + Thu Điếu Tầng trung/gần. - Cảnh thu 1. Thu Ẩm Cảnh nông thôn quen thuộc nghèo và đẹp được miêu tả ở nhiều thời điểm. + Không có ước lệ tượng trưng mà chỉ đơn thuần là miêu tả trần trụi. + Nghệ thuật độc đáo, vẽ mây nẩy trăng Miêu tả cảnh ao đêm trăng để thể hiện nỗi sầu qua làn nước mắt, sự đẹp đẽ của bầu trời dẫn đến nỗi suy tư đau đáu, trong cảnh chứa tình + Có sự cách tân trong ngôn ngữ, mùa thu hiện lên trong sáng và hài hòa. 2. Thu Vịnh Không gian cao rộng, bát ngát được miêu tả ở nhiều thời gian và địa điểm, mang tính khái quát. + Cảnh vật được miêu tả có sức sống như đang ở chốn thần tiên huyền diệu Nước phủ khói, ánh trăng tự len lỏi vào trong nhà và trong lòng người.. + Sử dụng từ láy một cách khéo léo, gợi lên trong các câu thơ chút gì đó man mác buồn không tỏ. + Mùa thu thật cao và rộng. 3. Thu Điếu Không chỉ miêu tả thiên nhiên mà còn có sự xuất hiện của con người trong không gian và thời gian cụ thể. + Không gian cô đơn, tĩnh mịch, hiu quạnh, mọi chuyển động đều vô cùng nhẹ nhàng. + Hình ảnh con người và chiếc thuyền trước thiên nhiên thật nhỏ bé, không hề cân xứng. +Hài hòa giữa hình ảnh, nhịp điệu và cách gieo vần. - Tình thu 1. Thu Ẩm Thể hiện gián tiếp qua "đôi mắt" một nỗi buồn sầu triền miên day dứt không sao khuây khỏa được. 2. Thu Vịnh Thể hiện trược tiếp qua từ "thẹn" nỗi đau xót, tiếc nuối, hoài cổ khi cuộc sống ngày xưa không còn nữa; hổ thẹn, day dứt vì đỗ Tam Trường nhưng vẫn chưa giúp gì được cho dân, cho nước. 3. Thu Điếu Tâm trạng u hoài, sầu bi khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan được thể hiện gián tiếp qua tư thế ngồi "tựa gối". Bài mẫu tham khảo So Sánh Ba Bài Thơ Thu Điếu, Thu Vịnh Và Thu Ẩm Trong Chùm Thơ Thu Của Nguyễn Khuyến Chỉnh sửa cuối 6 Tháng mười 2022 So sánh ba bài thơ Thu Điếu, Thu Vịnh và Thu Ẩm. Bài làm.​ "Long lanh đáy nước in trời Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng."​ Mùa thu là một đề tài muôn thủa và không chỉ trong thơ Nguyễn Du mà bất kì bài thơ thu nào khác, mùa thu đều khoác lên mình một vẻ đẹp tuyệt vời- vẻ đẹp của thiên nhiên, của sự vĩnh hằng cùng thời gian. Mùa thu từ bao đời nay đã đóng vai trò là một điểm tụ họp, một nơi giao cảm, thăng hoa và cũng là nối vân vương của biết bao bậc tao nhân mặc khách. Dù có sự khác nhau về không gian, thời gian, cách thể hiện hay ngôn từ, những bài thơ thu lúc nào cũng mang một sức sống mãnh liệt không thể chối từ. So sánh ba bài thơ "Thu Điếu", "Thu Vịnh" và "Thu Ẩm" của nhà thơ tài năng Nguyễn Khuyến, ta có thể nhận thấy rõ những điểm giống và khác nhau trong cảnh thu và tình thu ấy. Có thể thấy, ba bài thơ thu đều có những đặc điểm chung vô cùng nổi bật. "Thu Điếu", "Thu Vịnh" và "Thu Ẩm" đều được sinh ra dưới ngòi bút tài hoa lỗi lạc của thi nhân Nguyễn Khuyến. Cuộc đời đầy thăng trầm và biến động đã giúp ông có được một kho tàng hiểu biết phong phú, một trái tim nhân hậu ấm nồng cùng với những giác quan tuyệt vời, giúp ông phần nào vượt lên lối ước lệ xác mòn với tùng, cúc, trúc, mai quen thuộc trong thơ cổ mà tự thổi hồn mình vào ba bài thơ để chúng trở thành những kiệt tác bất hủ không gì sánh được. Bút pháp của Nguyễn Khuyến đã đạt tới sự thống nhất cao, thể hiện sự gắn bó với quê hương làng cảnh với sự hiện hữu của những sự vật quen thuộc như bầu trời, mặt nước và làn gió thu nhè nhẹ. Cơn gió trong cả ba bài thơ đều mang một nỗi buồn sầu khó tả, đối lập với bầu trời xanh và mặt ao tĩnh lặng đại diện cho cái đẹp của thiên nhiên và sự thanh bạch, tĩnh lặng trong tâm can Nguyễn Khuyến đã trở thành một biểu tượng trong thơ ca Nguyễn Khuyến, càng làm tăng thêm tâm trạng tù túng, hẩm hiu của con người. Xuân Diệu từng nhận định "Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ nôm. Mà trong thơ Nguyễn khuyến nức danh nhất ba bài thơ Thu Điếu, Thu Vịnh và Thu Ẩm." Quả đúng vậy, Thu Điếu, Thu Vịnh và Thu Ẩm không chỉ là những kiệt tác viết về mùa thu làng quê Việt Nam mà còn là một bản đồng ca sầu bi và hùng tráng. Nguyễn Khuyến sáng tác ba bài thơ thu vào cuối thế kỷ XIX. Khi ấy, đứng trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến đã nhận ra sự vô nghĩa của việc làm quan nên đã cáo quan về quê là Bình Lục - Hà Nam ở ẩn. Ông mang nỗi đau lớn của một con người có học thức vô cùng uyên bác nhưng lại trở thành một kẻ ngoài cuộc, một người bất lực, vô nghĩa trước vận mệnh của đất nước và dân tộc. Ba bài thơ thu đã khắc họa thấm thía nỗi đau của Tam nguyên Yên Đổ giữa thời mạt. Bằng cách tự nhiên nhất, Nguyễn Khuyến đã để hồn thu đi vào hồn người. Sự khác biệt giữa ba bài thơ là sự khác biệt về vị trí, hoàn cảnh đón nhận cũng như cách thể hiện cảnh thu và tình thu trong mỗi bài. Sự khác biệt dù chỉ rất nhỏ ấy cũng đủ để khiến cho mỗi bài thơ mang những nét độc đáo riêng biệt khó nhầm lẫn. Với "Thu Ẩm", nhà thơ tài năng Nguyễn Khuyến đã đón nhận mùa thu ở tầng thấp. Chỉ bằng vài ba nét chấm phá, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên cả cái thần, cái hồn của làng cảnh Việt Nam"Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe."​ Nhà cỏ năm gian là hình ảnh quá đỗi quen thuộc với người dân Việt Nam. Nguyễn Khuyến không theo lối ước lệ cao sang mà chỉ dùng bút pháp tả thực, vẽ lên trước mắt người đọc một miền quê nghèo thanh bình, yên ả. Cũng bằng cách ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cả câu thơ vượt lên lối ước lệ cổ điển với xác chữ quen mòn, để câu thơ hiện nên càng thêm gần, thêm đẹp. Hình ảnh con đom đóm bé nhỏ hiếm khi được nhắc đến trong thơ nay mang theo thứ ánh sáng "lập lòe", lúc rõ lúc không đã đi vào trong thơ văn Nguyễn Khuyến, càng làm tăng thêm độ tối, độ sâu của ngõ xóm quanh co vắng vẻ. Hiện thức rồi lại xen lẫn với hư ảo, căn nhà thơ Nguyễn Khuyến luôn đem đến những điều bất ngờ"Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe."​ Dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến, những từ láy "phất phơ", "lóng lánh" đã được dùng thật đắt. Gió thu nhè nhẹ chỉ đủ sức nâng tầng khói chiều lên đến lưng dậu đã khiến cho người đọc có đôi chút ảo tưởng về một chốn Bồng lai tiên cảnh. Làn khói ấy không chỉ là làn khói chiều của các bà các mẹ mà còn có thể là làn sương mờ ảo buổi sớm mai. Chi tiết nhỏ nhặt ấy đủ cho ta thấy giác quan của Nguyễn Khuyến nhạy bén đến nhường nào! Từ một hình ảnh không mấy giá trị, thoáng chốc đã được Nguyễn Khuyến nâng lên tầm nghệ thuật. Vẫn là chiếc ao thu quen thuộc nhưng trong "Thu Ẩm" nó lại rất khác lạ. Ánh trăng chiếu xuống mặt nước lăn tăn, dát vàng cả mặt ao dẫn dắt người đọc đến một liên tưởng táo bạo Trăng như tan ra, hòa cùng mặt nước hay đó chẳng qua là do đôi mắt tinh đời của Nguyễn Khuyến đã bị nhòe đi nên không thể thấy rõ vẻ đẹp của vầng trăng. Phải chăng, trăng như hiểu tâm trạng con người, thông qua mặt ao mà âu yếm, vuốt ve, vỗ về và phải chăng, chính Nguyễn Khuyến cũng đang tự rơi nước mắt cho bản thân, cho một con người đứng ngoài thời cuộc. Bầu trời trong xanh, cao lồng lộng của mùa thu là một sự thật hiển nhiên bao đời nhưng trong "Thu Ẩm", nó lại trở thành một câu hỏi khó tìm lời giải đáp"Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?"​ Chữ "ai" đã thể hiện vẻ ngạc nhiên của tác giả trước vẻ đẹp của bầu trời lộng lẫy. Màu xanh ngắt thường được sử dụng trong thơ để tượng trưng cho niềm tin, hi vọng và sức sống mãnh liệt nhưng cũng có khi, màu xanh ấy lại phảng phất sự tiêu điều không đáng có. Phải chăng, có một bàn tay huyền diệu nào đó đã tô lên bầu trời màu xanh ngắt hi vọng ấy và phải chăng, câu hỏi thực sự của tác giả chính là Ai đã nỡ lòng vẽ lên những mảng màu mới cho cuộc sống thanh bình trong trẻo ngày trước, để nó ngày càng trở nên hoen ố, lụi tàn? Lịch sử đã giải thích cho câu hỏi thứ hai và chính Nguyễn Khuyến đã trả lời cho câu hỏi trước, bởi lẽ ông đã từng nói "Ông trời người đã tạo ra cái màu xanh ngát ấy." "Cao cao xanh ngắt vẫn là tao Dẫu pháo thăng thiên đã tới nào Nhắn bảo trần gian cho nó biết Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào."​ Ông trời có cho mình một sức mạnh không gì cản nổi, tính khí thất thường, lúc "tao", lúc "tớ" khiến cho trần gian chẳng biết kêu khóc cùng ai. Câu thơ của Nguyễn Khuyến thật nhẹ nhàng nhưng mang một tầng hàm ý đã mở ra nỗi suy tư, đau buồn khôn xiết của nhà thơ"Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe."​ Câu thơ không khóc mà trải đầy nước mắt. Nó như một tiếng thở dài ngao ngán, một thứ tình cảm trào dâng như đê vỡ không gì cản nổi. Giữa cảnh thu tưới đẹp, nhà thơ muốn nhờ thiên nhiên mà quên đi tất thảy nhưng nước mắt lại cứ trào ra, nhiều đến nỗi nhuộm đỏ cả con mắt mà chưa thể ngừng. Nhà thơ buồn bã ngồi uống rượu nhưng lại chỉ được dăm ba chén đã lại say. Nhà thơ như đang tự mình uống rượu độc mà giải khát, càng uống lại càng đau, càng uống càng day dứt khôn cùng"Rượu tiếng giằng hay, hay chẳng thấy Độ dăm ba chén đã say nhè."​ Tâm hồn ấy, nỗi buồn ấy mang dấu ấn của cả một thời đại, của cả một lớp người với tấm lòng rộng lớn mà lại chẳng tìm được lối đi riêng. Sự cách tân trong ngôn ngữ cùng lối thủ pháp "vẽ mây nẩy trăng" khiến cho mùa thu trong "Thu Ẩm" hiện lên như mối tình đầu của con người, thật trong sáng và hài hòa. Đối với "Thu Vịnh", bài thơ lại có phần khái quát hơn, không gian không còn là ngôi nhà cỏ thấp bé le te, là ngõ sâu hun hút tối mịt mùng mà trở nên cao rộng bát ngát. Nguyễn Khuyến đã đón nhận "Thu Vịnh" ở một khoảng không rộng lớn thoáng đạt"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu."​ Cái đẹp của mùa thu là ở những tầng mây xanh rộng, đẹp đẽ đến vô ngần. Lại là màu xanh ngắt nhưng lần này thay vì màu trắng tinh khôi của cành hoa lê trong Hội Đạp Thanh như Nguyễn Du Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lên trắng điểm một vài bông hoa, Nguyễn Khuyến thay vào đó là một sắc xanh của những thân trúc thon dài, lơ phơ trước gió, cong vút như cần câu. Màu xanh của trời và xanh của lá không hề bị hòa trộn, nhầm lẫn mà còn khiến cho câu thơ như thêm một tầng sức sống, màu xanh bủa vây bốn phía, tràn ra mọi cảnh vật và tràn vào lấp đẩy khoảng trống trong tâm hồn con người. Nguyễn Khuyến đã sử dụng độc đáo, hài hòa hai màu sắc xanh, để hai câu thơ đủ sức song hành cùng "cỏ non" và "cành lê trắng" của vị đại thi hào Nguyễn Du, trở thành những câu thơ tiêu biểu nhất cho vẻ đẹp của mùa xuân và mùa thu. Nguyễn Khuyến đặc biệt chú ý đến cảnh sắc làn nước mùa thu. Nước biếc trong con mắt tinh tường của Nguyễn Khuyến lại càng trở lên trong vắt, lung linh. Nước biếc long lanh in cảnh trời bể và phủ lên đó là làn sương mỏng manh như hư như thực, tạo nên một huyễn cảnh mông lung khiến con người luôn mê mẩn đắm say"Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc ánh trăng vào"​ Trăng thu rất đẹp nhưng người lại buồn, vì buồn nên không vồ vập, đắm say với trăng. Chỉ một từ "mặc" cũng đủ để diễn tả tâm trạng ngao ngán của nhà thơ. Ánh trăng đã chẳng còn đủ sức để bầu bạn, giúp nhà thơ vơi đi nỗi buồn cô đơn sầu tủi"Đời loạn đi về như hạc độc Tuổi già hình bóng tựa mây trôi." Cảm hứng​ Nguyễn Khuyến là một nhà thơ Nho gia suốt đời thanh bạch nhưng con người ấy cũng mang trong lòng những nỗi buồn đến ngơ ngẩn không gì sánh được"Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoài Một tiếng trên không ngỗng nước nào."​ Nỗi buồn khiến nhà thơ quên mất cả không gian, thời gian. Nhìn hoa năm nay mà cứ ngỡ là hoa năm ngoái, nghe tiếng ngỗng kêu mà chẳng phân biệt được ngỗng của nước mình hay nước bạn. Nhà thơ không cam tâm trước cảnh đất nước bị dày xéo bởi quân thù. Đó là nỗi lòng của một người con yêu nước, là niềm hoài cổ, nhớ nhưng với một thời yên bình đã qua. "Thu Vịnh" còn thể hiện nỗi ngượng ngùng, xấu hổ ít ai có được của nhà thơ"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào."​ Nhà thơ thấy hổ thẹn, xấu mặt trước Tĩnh Tiết Tiên Sinh- Đào Tiềm- một con người văn võ toàn tài. Ông xấu hố vì mình đỗ đầu ba khoa mà không thể giúp gì được cho dân cho nước. Đằng sau cái tự thẹn ấy còn là nỗi lòng của một bậc trí nhân ái quốc. Riêng nói về "Thu Điếu", Xuân Diệu đã nhận xét "Thu Điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.". Quả đúng như vậy! Nếu như ở "Thu Vịnh", mùa thu được đón nhận ở tầng cao thì "Thu Điếu được đón lấy ở tầng gần. Chiếc ao thu thân thuộc không còn được ước lệ tượng trưng nhưng vẫn sinh động bất ngờ" Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo. "​ Dưới con mắt của Nguyễn Khuyến, cái" lạnh lẽo "không hẳn là chỉ cái giá của nước mà một phần để chỉ sự tĩnh lặng, thưa thớt của không gian. Vì ít bị ngoại vật khuấy động nên mặt nước ao thu trong veo có thể soi thấy đáy. Khác với hai bài thơ trước, trong" Thu Điếu "đã có sự xuất hiện của con người. Tuy nhiên, con người lúc này thoạt trông cũng thật nhỏ bé. Chiếc thuyền nhỏ lênh đênh trên mặt ao rộng khiến con người càng thêm bé nhỏ, yếu ớt trước thiên nhiên, đó chẳng hay cũng chính là tầm nhìn trong cảm nhận của Nguyễn Khuyến Người dân ta cũng rất yếu đuối, vô lực trước những thế lực tà ác ngoại xâm. Cảnh vật hiện nên ngày càng thưa vắng, tĩnh lặng, không hề có sức sống" Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. "​ Có nhà thơ từng nhận xét" Cái thú vị của bài "Thu Điếu" là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh bèo và có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi. ". Sự phối hợp giữa xanh và vàng cũng những chuyển động tinh tế, khẽ khàng đã nhấn mạnh cái tĩnh lặng của cảnh thu. Chỉ một chuyển động nhỏ của chiếc lá khẽ rơi tưởng như không đáng kể, không gian lại quay trở lại trạng thái tĩnh lặng ban đầu. Nhưng trong con mắt tinh tế của cây bút tài năng Nguyễn Khuyến, màu vàng ấy còn là một dấu hiệu chứng tỏ mùa thu đã sắp qua đi, lá vàng rụng hết là khi mùa đông tới, cảnh vật đã tiêu điều lại tiêu điều hơn một bậc. Sự đối lập về màu sắc phải chăng cũng chính là sự đối lập trong xã hội và lòng người. Trong cuộc sống, có những con người như màu xanh, như cây cỏ, dù bị gió quật ngã bao nhiêu, dù bị dẫm đạp bao nhiêu thì chỉ cần một đoạn rễ cũng có thể tái sinh đầy sức sống nhưng cũng có những con người không chịu được sự tàn phá của thời gian và ngoại cảnh mà dần trở nên héo úa phai tàn. Còn tác giả, phải chăng dù đang thảnh thơi nhưng nhìn chiếc lá khẽ đưa mà lại nhớ về những vấn vương, những nỗi sầu đau đáu của mình. Không gian ngày càng được rộng mở về chiều cao và chiều sâu" Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. "​ Những đám mây di chuyển nhẹ ở lựng chừng, không có điểm tựa mà chỉ có một màu duy nhất – màu xanh ngắt – màu xanh duy nhất tỏa ra trên diện rộng, đẩy bầu trời thêm cao, thêm rộng. Dưới bầu trời quen thuộc ấy là ngõ trúc quanh co uốn lượn. Vẫn là hình ảnh của xóm làng quê hương nhưng Nguyễn Khuyến không còn miêu tả hội hè linh đình mà là một nông thôn tĩnh lặng, người qua lại thưa thớt, thời gian như chậm lại đồng thời cũng khiến cho tâm can con người yên ả lạ kì. Giữa không gian tĩnh lặng, Nguyễn Khuyến ngồi ngơ ngẩn cùng chiếc cần câu" Tựa gối buông cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. "​ Câu cá dường như để hòa mình vào thiên nhiên, rũ sạch bụi trần, mong quên đi những giây phút bận lòng lo toan cho cuộc sống nhưng quên làm sao được. Nhà thơ đi câu nhưng không chú tâm lắm. Tư thế hiện tại của nhà thơ là tư thế suy tư, ngẫm ngợi xa vời. Chính vì thế nên ông vô tình đã trở nên nhạy bén và phát hiện ra tiếng cá khuấy nước dưới chân cái bèo nào đó. Đại từ phiếm chỉ" đâu "đã thực sự khẳng định sự xuất hiện của con cá nhưng hoàn toàn không biết rõ nơi chốn. Hồn Nguyễn Khuyến phải chăng đang bơi cùng con cá, hòa hồn mình vào thiên nhiên trong một khoảng thời ngắn mong được quên đi những muộn phiền đau đớn, những nỗi u hoài khi phải chứng kiến cảnh héo dần héo mòn của đất nước mà không biết phải làm thế nào. Ba bài thơ, ba cảnh trí, ba màu sắc khác nhau, ba âm hưởng khác nhau nhưng đều thể hiện tâm sự non nước đầy vơi của thi nhân Nguyễn Khuyến. Hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật trong cả ba bức tranh đã đạt tới đỉnh cao, thật điêu luyện và không kém phần dân dã, mộc mạc. Sự kết hợp hài hòa và tài tình của Nguyễn Khuyến trong vần và điệu ở cả ba tác phẩm đã phần nào khẳng định tính thống nhất trong các sáng tác của ông, đồng thời còn khéo léo mở ra những góc nhìn mới, những nét chấm phá đầy sáng tạo và mới mẻ. Ba bài thơ" Thu Điếu "," Thu Vịnh "và" Thu Ẩm"là những bài thơ thu nổi tiếng, xứng đáng là những hòn ngọc quý trong tao đàn thơ Việt. Mỗi bài thơ là một bức tranh toàn diện với những sắc hương khác biệt nhưng cùng mang những vẻ đẹp trường tồn vĩnh cửu. Cả ba bài thơ đã để lại những ám ảnh mãnh liệt trong lòng bạn đọc và tôi tin chắc rằng họ sẽ không bao giờ quên. cảnh thu nguyễn khuyến so sánh thu ẩm thu vịnh thu điếu tình thư Nội dung Text Phân tích chùm thơ thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm Phân tích chùm thơ thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm Bài văn đạt giải nhất quốc gia năm 2002 Bảng A .Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”. Nguyễn Khuyến - về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội, 199, trang 160 ĐỀ BÀI Theo Xuân Diệu, “ Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”. Nguyễn Khuyến - về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội, 199, trang 160 Anh, chị hãy phân tích những sáng tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm, từ đó nêu vắn tắt yêu cầu đối với tác phẩm văn học. Trên cơ sở có những hiểu biết chắc chắn về Nguyễn Khuyến tiểu sử, con người, sự nhgiệp sáng tác, thuộc và hiểu ba bài thơ; từ đó, phân tích làm bật được vẻ đẹp riêng của từng thi phẩm, và thông qua sự phân tích đó, nêu ngắn gọn yêu cầu đối với một tác phẩm văn học. 1, Trình bày được một số nét chung của cả ba bài thơ cùng một đề tài rất quen thuộc mùa thu, cùng một bút pháp, cùng một tác giả, thời điểm ra đời không cách xa nhau nhiều. Tất cả ba bài thơ đều toát lên cảnh thu và trong sáng, đượm buồn qua bút pháp quen thuộc của thơ trung đại chỉ bằng vài nét đơn sơ mà ghi được cái hồn của cảnh vật, lấy động để tả tĩnh, nhân vặt trữ tình luôn thư thái, tự tại… Mặc dù đề bài không yêu cầu trực tiếp trình bày những nét chung của ba bài thơ, nhưng để làm bật những nét riêng - vẻ đẹp độc đáo – không thể bỏ qua điều này. Dĩ nhiên đây chỉ là ý phụ, không cần phải triển khai kĩ. 2. Bài bật được vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm. - Vẻ đẹp của cảnh thu + Thu điếu Cảnh thu được đón nhận từ cận cảnh đến viễn cảnh, rồi lại từ viễn cảnh trở lại cận cảnh. Từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu và chiếc thuyền câu. Từ cảnh ao thu, không gian mùa thu được mở ra theo nhiều hướng với những cảnh sắc khác nhau. Thu điếu đúng là “ điển hình hơn cả mùa thu của làng cảnh Việt Nam” Xuân Diệu”. Cảnh vật ở đây lặng lẽ, thanh sơ, bé nhỏ, chuyển động rất nhẹ… Có lẽ đây là bài thơ thấm đẫm chất Việt Nam, dân dã và bình dị hơn cả trong ba bài thơ. + Thu ẩm Cảnh vật được phác hoạ từ cận cảnh đến viễn cảnh. Tác giả cảm nhận cảnh thu từ ngôi nhà cỏ đơn sơ. Từ đây nhìn ra đường đi trong xóm, nhìn xuống mặt ao, rồi nhìn lên bầu trời biếc xanh vô tận. Bài thơ không miêu tả một thời điểm cụ thể mà khắc hoạ nhiều thời điểm khác nhau, thời điểm nào cũng mang hồn thu. Một trong những nét đặc sắc của bài này là cách miêu tả cảnh đêm và cảnh buổi chiều. Thu ẩm độc đáo ở giọng bông đùa như của người hơi chuếnh choáng… + Thu vịnh Cảnh vật được miêu tả từ viễn cảnh đến cận cảnh, rồi từ cận cảnh tời viễn cảnh từ bầu trời nhìn xuống cành trúc, mặt nước, chùm hoa, bóng trăng; từ mặt đất lại hướng lên bầu trời tuy cùng với nhiều thời điểm, nhiều không gian khác nhau. Đây là bức tranh toàn cảnh về mùa thu, mà đặc sắc nhất có lẽ là trời thu và trăng thu. Đây có lẽ là bài thơ trang trọng, cổ kính gần với thơ Đường nhất trong ba bài thơ. - Vẻ đẹp của tình thu + Thu điếu là nỗi cô quạnh , uẩn khúc, tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước, niềm gắn bó với thiên nhiên và quê hương, tấm lòng yêu nước thầm kín. + Thu ẩm in rõ nhất hình bóng và tâm trạng nhà thơ. Ông sống trong sự thanh đạm. Và có lẽ con người này rất dễ xúc động. Nhà thơ uống rượu để thưởng thức cảnh thu và quên sự đời. Tuy đã ẩn nhưng ông luôn nặng lòng trước thời thế. + Thu vịnh thể hiện nỗi buồn sâu lắng, dường như nó làm mất cả ý niệm thời gian, không gian. Cái thẹn của nhà thơ trước Đào Tiềm chứng tỏ phẩm chất tinh thần tuyệt vời của Nguyễn Khuyến. - Vẻ đẹp của hình ảnh và ngôn ngữ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc, rất Việt Nam. Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện, phần nhiều là từ thuần Việt so với một số cây bút đương thời; bài nào cũng có những từ được dùng một cách thần tình; không dùng điển cố, nếu có thì cũng đơn giản, tạo thêm sự hàm súc cho câu thơ. Thu điếu ít hình ảnh tượng trưng, Thu ẩm sống động, pha chút đùa vui; Thu vịnh trang trọng, cổ kính. - Sở dĩ mỗi bài thơ có một vẻ đẹp khác nhau là nhờ có tài năng và sự hiểu biết sâu sắc, sự gắn bó máu thịt của Nguyễn Khuyến với quê hương, đất nước. Nhờ có vẻ đẹp riêng nên ba bài thơ cùng bất tử, luôn hấp dẫn người đọc. 3. Nêu vắn tắt yêu cầu đối với một tác phẩm văn học “ Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” Lêônôp, tức là tác phẩm phải độc đáo, nhà văn phải sáng tạo. BÀI VIẾT Thu là thơ của đất trời Thu là thơ của lòng người Thu và thơ từ bao giờ đã là đôi bạn tri âm. Thu vào thơ mang theo nguồn thi hứng dạt dào. Thơ làm cho thu thêm phần đẹp đẽ hơn, nên thơ hơn gấp bội. Chẳng thế nào thơ về mùa thu đã góp một gia tài khổng lồ trong kho văn chương nhân loại. Chỉ riêng văn học Việt Nam cũng đủ tạo nên một kho thơ với Cảm thu, Tiễn thu Tản Đà, Đây mùa thu tới, Ý thu Xuân Diệu… và nhất là chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. “ Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh” Xuân Diệu. Mỗi bài một vẻ đẹp riêng, sức hấp dẫn riêng trong sự hòa điệu của hồn thơ thu Nguyễn Khuyến. Mùa thu đi vào thơ ca trở thành nguồn mạch ngọt ngào vun đắp cho dòng thơ. Mỗi bài thơ là một vẻ hấp dẫn, mang theo sức hút, độ nặng, tầm cao riêng. Thu vốn đẹp và buồn. Thu vào thơ càng đẹp hơn, buồn hơn dưới cảm quan tinh tế của thi sĩ. Tâm hồn nhà thơ vốn mẫn cảm trước cái đẹp, tinh tế nhận ra một nét thu buồn, một vẻ thu thơ mộng, mê say. Trước đất trời, cảnh vật mùa thu, Nguyến Khuyến đã để cung đàn cảm xúc của mình ngân lên, bùng cháy lên thành những vần thơ tuyệt bút. Dường như mùa thu đã hút lòng thi sĩ. Một bài thơ về thu chưa thoả nỗi lòng Nguyễn Khuyến. Mỗi bài một vẻ mà bài nào cũng hay, cũng thấm sâu vào tâm hồn bạn đọc và bám rễ chắc ở đấy, “ động thấu tới những miền sâu xa nhất của trái tim con người”. Viết về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã gặp gỡ không chỉ thi ca truyền thống mà còn thi ca hiện đại, không chỉ thi ca Việt nam mà cả thi ca nước ngoài, không chỉ gặp gỡ hồn thơ Á Đông mà còn gặp gỡ hồn thơ phương Tây trước mùa thu. Dường như mùa thu trở thành nơi giao hoà, cộng hưởng, là điểm hẹn của tâm hồn thi sĩ muôn phương, ngàn đời. Vẫn là mùa thu làng cảnh Việt nam bình dị nhưng dưới con mắt, tâm hồn cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khuyến, mùa thu hiện lên mang những gương mặt, dáng điệu khác nhau. Nếu Thu điếu là bức tranh mùa thu xanh, sắc xanh trải ngàn, lênh láng, Thu vịnh là bức tranh mùa thu của gió nhẹ trời cao xanh trong, của tâm trạng hoài niệm thì Thu ẩm là bức tranh mùa thu đa vẻ đa diện được cảm nhận trong nhiều thời điểm, nhiều không gian. Vẫn là bầu trời thu xanh ngắt nhưng mỗi bài thơ là một sắc điệu riêng Trời thu xanh ngắt mấy từng cao Thu vịnh Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Thu ẩm Tầng mây lơ lưng trời xanh ngắt Thu điếu Xanh ngắt là màu xanh như thế nào? Chỉ một từ nhưng Nguyễn Khuyến đã thu được và nẩy hồn trời thu lên trang thơ. Một màu xanh đến quá quắt. Bầu trời mùa thu không chỉ xanh, đó còn là bầu trời cao vời vợi, xanh bát ngắt, rộng mênh mông. Không gian mở ra thoáng đạt đến vô cùng. Xanh ngắt trở thành “ nhãn tự” của câu thơ, trở thành linh hồn của trời thu. Bầu trời dưới con mắt Nguyễn Khuyến đẹp lạ, cao xa, rộng đến ngút ngàn tầm mắt. Nó trở thành phông nền cho bức tranh thu. Vẫn là màu xanh ngắt ấy nhưng khi thì Nguyễn Khuyến nói lời cảm nhận, miêu tả Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao - một nét vẽ cho màu xanh chảy tràn suốt mấy từng trời cao rộng; lúc khác lại là một băn khoăn, một thắc mắc Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt? Hẳn tạo hoá nhiệm màu nhuộm sắc xanh ngắt cho da trời mùa thu. Trước sắc màu tươi sáng của trời thu, thi sĩ sao tránh khỏi thoảng thốt giật mình vì vẻ đẹp mê say ấy. Câu hỏi không cần lời đáp. Hỏi chỉ để thể hiện sự ngạc nhiên, thảng thốt trước vẻ thu. Phải chăng sự cấu từ, tổ chức ngôn từ khác nhau khiến sắc xanh ngắt kia sống mãi trong cả ba bài thơ thu? Ta giật mình gặp lại sắc màu nhưng ta còn giật mình, thú vị hơn khi được thay đổi góc độ cảm nhận sức màu ấy theo lăng kính thi nhân. Nguyễn Khuyến quả đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện của sự sáng tạo trong thi ca. Sắc xanh ngắt đã mới, đã là sự sáng tạo; cách thể hiện sắc xanh ngắt còn mới mẻ, độc đáo hơn. Ba câu thơ, ba hình ảnh thơ mà không rơi và thế nhàm chán, đơn điệu. ngược lại, câu chữ cuốn người đọc vào hành trình bất tận khám phá vẻ đẹp màu thu. Đến với thế giới mùa thu trong Thu điếu, ta cơ hồ nhận ra cái gì cũng nhỏ bé, cũng khẽ khàng Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợi tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Một chiếc thuyền bé lại còn bé tẻo teo. Tưởng chứng hình ảnh thu nhỏ kết cỡ. Trong không gian đầy ao đầm của làng quê Nguyễn Khuyến, con thuyền cũng nhỏ bé thôi, nhẹ nhàng trôi trên ao. Nếu không phải trong ao hẳn con thuyền sẽ chẳng bé tẻo teo như thế. Và cũng vì trong ao nên sóng biếc cũng chỉ hơi gợn tí. Gợn vốn là sự chuyển động rất mỏng , rất nhỏ, khó thấy… vậy mà câu thơ Nguyễn Khuyến lại dùng hơi gợn tí. Sự kết hợp từ ngữ độc đáo, mới lạ đã đưa hoạt động như có như không đạt đến độ vi mô, tế vi nhất. Ngay cả lá vàng trước gió cũng chỉ khẽ đưa vèo nhẹ nhàng, sẽ sàng. Câu thơ không tả gió, chỉ tả lá rơi mà vẻ nhẹ nhàng man mác của gió heo may vẫn được hiển hiện. Ba câu thơ, ba hình ảnh, ba nét vẽ mà hình ảnh nào cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng, nét vẽ nào cũng thành thoát. Chỉ “ lẩy bút ti tí” mà khí thu, hơi thu đã hiện lên, dù nhẹ… Đặc biệtThu điếu, với việc gieo vần eo, đã tạo nên cảm giác cái gì cũng thu nhỏ lại. Hoạt động cũng ít ỏi thôi. Âm thanh cũng nhẹ nhàng thôi, không gian hầu như tĩnh lặng tuyệt đối. Phải gắn bó với làng quê Việt Nam, phải tinh tế trong cảm nhận lắm, Nguyễn Khuyến mới thu vào trong thơ mình nét dịu nhẹ, cơ hồ như có như không, như hữu hình mà cũng như vô hình của nét thu. Khí thu khác hẳn với cảm nhận của Đỗ Phủ trong Thu hứng Hơi thu hiu hắt, khí thu loà. Thu trong cảm quan nhà thơ mang linh hồn Việt Nam nhẹ nhàng và thanh sơ. Cùng thể hiện sự nhẹ nhàng, man mác của gió thu, tiết thu, Nguyễn Khuyến trong thu vịnh viếtCần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nếu trong Thu điếu Nguyễn Khuyến lấy cái động của sóng, cái lá vàng rơi để tả gió, nói gió thì ở đây, trong Thu vịnh, nhà thơ lại dùng hình ảnh cần trúc lơ phơ để thể hiện sự dịu dàng, man mác của gió heo may đầu thu. Cần trúc là một hình ảnh rất quen, rất điển hình của làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những đọt măng qua thời gian lớn lên, khẽ cong trước gió như cần trúc. Nhưng chỉ lơ phơ, hắt hiu miêu tả sự nhẹ, sự mỏng cùng song hành trong một câu thơ đã lắng vào đấy, quyện vào đấy không gian đất trời mùa thu, quyện vào đấy hơi thu, khí thu, một nét thu rất Việt Nam nhẹ và êm. Hoà trong khí thu, tiết thu thanh cao, dịu nhẹ ấy, không gian, khung cảnh mùa thu cũng mở ra nhiều chiều nên thơ và say mê lòng người. Tập trung nhất, cảm nhận nét thu dịu dàng, thơ mộng nhất có lẽ ở bài thơ Thu điếu Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé toẻ teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí. Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Không gian bức tranh mở ra tại ao thu lạnh lẽo, cái lạnh không thấm vào da thịt, không buốt xương, nó chỉ nhẹ nhàng, mơn man. Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo lững lờ trên mặt nước ao thu ấy. Nước trong veo, xanh, trong, và sáng đến vô ngần. Phải trong, phải xanh, nhất là phải rất sáng mới có được làn nước ao trong veo như thế. Đến sóng gợn cũng phải biếc, cũng chứa sắc xanh đến nao lòng người. cùng hoà điệu với nước xanh, sóng xanh là bầu trời xanh ngắt. Sắc xanh như đổ tràn, kết nối mặt nước với bầu trời. Bầu trời xanh in bóng xuống mặt nước khiến mặt nước vốn trong lại xanh thêm. Mặt nước phải tĩnh lặng như tấm gương khổng lồ của tạo vật để bầu trời kia nghiêng mình soi bóng. Trời và nước giao hoà, kết nối. Trời cao vòi vọi, nước sâu thăm thẳm, tất cả đều kéo giãn không gian, mở rộng khoảng cách. Tưởng không có gì hơn giữa cõi thăm thẳm của nước trời độ thu. Giữa không gian cao, rộng và sâu ấy, chiếc lá vàng vốn nhỏ càng nhỏ thêm, rợn ngợp thêm. Sắc vàng duy nhất như đâm xiên giữa bao nhiêu là sắc xanh. Một chiếc lá, một sắc vàng nhỏ xíu khẽ đung đưa, trở thành tâm điểm, nổi bật lên trên nền không gian ấy. Bức tranh thiên nhiên cảnh vật rất thật và đẹp, sống động và xinh xắn. Nhìn sắc vàng của lá, ta nhớ đến câu thơ. Một lá ngô đồng rụng Thiên hạ biết thu sang Chẳng cần nhiều sắc vàng của lá. Không gian mùa thu Việt Nam dưới cái nhìn của Nguyễn Khuyến ngợp sắc xanh, khác hẳn màu áo mơ phai trong thơ Xuân Diệu Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng Đâu cứ phải sắc vàng mới dệt nên mùa thu, đâu cứ phải chỉ bức tranh mùa thu vàng của Lêvitan mới đẹp, mới đắm say lòng người. Nguyễn Khuyến, bằng vốn ngôn ngữ giàu chất gợi, chất họa, đã vẽ nên một màu thu xanh nên thơ rất Việt Nam làm say đắm lòng bất cứ một người nào đã từng sống với thu, với làng quê đất Việt trong tiếng thu. Thậm chí, những câu này của Nguyễn Khuyến đủ giúp ai chưa từng sống ở cảnh ấy, không gian ấy thêm yêu mến và khát khao tìm về hoà điệu cùng cảnh vật, lòng người hay chí ít, đủ tạo cảm giác ta đã sống, đã cảm nhận sâu sắc, cảm nhận đủ đầy mùa thu Việt Nam nơi chốn quê thanh bình, yên tĩnh. Khác với không gian Thu điếu, Thu vịnh, bài thơ Thu ẩm lại tạo nên mọt vẻ đẹp khác rất quen mà sao vẫn hấp dẫn, cuốn hút, mê say. Bài thơ mở ra không phải là không gian cao trong, rộng rãi, khoáng đạt đến vô cùng của Thu điếu, Thu vịnh, không phải là trời mây, non nước, là thiên nhiên tạo vật đắm say. Bài thơ mở ra một không gian gần gũi, thân thuộc của quê nghèo Việt Nam buổi ấy Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo. Năm gian nhà cỏ hiện lên đủ để tạo cảm nhận về sự nghèo đói của quê hương, của đời riêng Nguyễn Khuyến nhưng còn nghèo hơn, khổ hơn, tăm tối hơn với cụm từ thấp le te. Đã thấp lại còn le te! Tưởng như năm gian nhà chạm đất được. Phải chăng đấy là hình ảnh rất chân thực của làng quê ông, một vùng đồng bằng chiêm trũng chưa mưa đã úng, quanh năm đói nghèo? Cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ say lòng nhưng cuộc sống thì lấm lem, nghèo đói Năm gian nhà cỏ thấp le te Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo Nhà thấp. Một sự tối. Lại thêm ngõ tối, đêm sâu. Không gian càng tối đen, ngột ngạt hơn. Giữ đêm tối mịt mùng, sự lập lòe của đom đóm không làm sáng lên không gian, không làm ấm lên. Ngược lại cảm giác tối càng rợn ngợp hơn, đặc quánh lại, đầy ám ảnh. Phải nói rằng, Nguyễn Khuyến đã rời khỏi không gian tràn đầy ánh sáng, tràn đầy màu sắc đẹp đẽ của thu để trở về cảm thương trước cảnh sống, trước không gian sống quen thuộc quanh mình. Đọc những vần thơ ấy, ta có cảm giác Nguyễn Khuyến như nhói lòng trước cảnh ấy, trước hiện thực tăm tối ấy. Bài thơ vì thế nhưng ngoặt sang hướng khác, không còn nữa sự thảnh thơi, thư thái trước đất trời tạo vật. Thế nhưng Lưng giậu phát phơ màu khói nhạt

thu dam vu to