kim tỨ ĐỒ thu nhẬp - bÍ mẬt quyẾt ĐỊnh gi.À.u ngh.È.o October 18, 2022 Kỹ năng sống, KIM TỨ ĐỒ THU NHẬP - BÍ MẬT QUYẾT ĐỊNH GI.À.U NGH.È.O Kim tứ đồ – một định nghĩa được đưa ra bởi bậc thầy tài chính Robert Kiyosaki trong II. Một số ví dụ thực tế về vấn đề bảo vệ quyền bí mật đời tư. 10. 1. Vụ thứ nhất: việc xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân. 10. 2. Vụ việc xâm phạm an toàn bí mật thư tín. 14. III. Giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật hiện hành về quyền bí Báo chí đăng tin đời tư người khác nhưng nếu không xin phép người đó thì bị coi là vi phạm pháp luật. Tiết lộ bí mật đời tư của người khác, đăng tin trên báo có thể sẽ làm ảnh hưởng đến nhân phẩm danh dự, thậm chí đẩy người đó vào tâm lý bi quan, sợ hãi 5/5 - (1 bình chọn) Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Vấn đề này đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật khám chữa bệnh, Luật Bưu chính, Luật Viễn thông, Luật các tổ chức tín dụng Những Bí Mật Đời Tư Ít Ai Biết Của TỂ TƯỚNG LƯU GÙ - Không Giống Trên Phim ẢnhNội dung: Trong bộ máy quan chế thời Phong kiến, Tể tướng là một chức Tài liệu "Bí mật đời tư vấn đề lí luận và thực tiễn" có mã là 262000, file định dạng zip, có 17 trang, dung lượng file 24 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Kinh tế > Thuế. Tài liệu thuộc loại Đồng. Nội dung Bí mật đời tư vấn đề lí luận và thực tiễn DJGwX. Ngày đăng 26/03/2013, 2030 Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn Website Email lienhe Tel Đề tài Bí mật đời t vấn đề lí luận và thực tiễn Kết Cấu Bài Viết 1. Phần mở đầu 2. Nội Dung a. Phần lý luận I. Khái niệm Bí mật đời t II. Quyền đối với bí mật đời t III. Một số quy định về Bí mật đời t của các quốc gia trên thế giới. B. Thực tế I. Hiểu thế nào về bí mật đời t liên quan đến tác nghiệp báo chí. II. Các vụ việc liên quan đến Bí mật đời t. 3. Kết luận 1 Website Email lienhe Tel Phần mở đầu Trong đời sống xã hội, mỗi ngời đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời t cá nhân Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái danh của mỗi con ngời, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh Khi nói đến quyền nhân thân ng ời ta thờng quan tâm đến những quyền cụ thể nh quyền đối với họ, tên ; quyền đối với hình ảnh của mình ; quyền đợc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín ; quyền đợc bảo vệ bí mật đời t Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng đợc mở rộng bao nhiêu, thì con ngời càng đợc tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng đợc pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nớc ta, trớc đây các quyền nhân thân đợc pháp luật quy định cha nhiều, trong cuộc sống thờng ngày, tên họ, hình ảnh, đời t của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; ngời bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc ngời vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thờng thì ngời xâm phạm chỉ bị đền bù tợng trng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho ngời đó. Gần 10 năm nay, cùng với những thành quả của công cuộc đổi mới, sự ra đời của bộ luật dân sự có hiệu lực từ ngày 01. 07. 1996, nhiều quyền nhân thân của công dân đã đợc Nhà nớc long trọng công nhận và thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ. Cụ thể nh vấn đề họ tên, hình ảnh, bí mật đời t, uy tín, danh dự, nhân phẩm 2 Website Email lienhe Tel của cá nhân đã đợc pháp luật quy định ở nhiều văn bản, nhiều ngành luật khác nhau. Nhiều vụ án đã đợc Toà án thụ lí xét xử, buộc ngời vi phạm dù là cá nhân hay tổ choc, dù là t nhân hay Nhà nớc đều phải có nghĩa vụ xin lỗi và bồi thờng bằng tiền cho ngời bị xâm phạm. Từ các cơ quan Nhà nớc tiến hành tố tụng gây oan sai, từ báo chí thông tin sai sự thật, xuyên toạc, vu khống ; từ việc cá nhân tổ choc đạo văn, ăn cắp nhạc, xâm phạm bản quyền ; từ việc tự ý sử dụng họ tên hay hình ảnh của công dân trên các mẫu quảng cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến hoặc không đợc sự đồng ý của ngời đó hoặc thân nhân của họ nếu họ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trờng hợp ngời bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của ngời đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, ngời xâm phạm nhân thân của ngời khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thờng bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho ngời bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thờng thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lơng tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, ngời bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử thì riêng mức bồi thờng thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lơng tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa ngời với ngời giữa ngời vi phạm với ngời bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nớc đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của ngời khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm cha đáng kể thì có thể bị Nhà nớc xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì ngời thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. 3 Website Email lienhe Tel Nói tóm lại, quyền nhân thân của con ngời đã đợc pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn cha đợc quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài Bí mật đời t - vấn đề lí luận và thực tiễn. 4 Website Email lienhe Tel Nội dung A. Phần lý luận I. Khái niệm bí mật đời t Hiện nay Bộ luật dân sự nớc ta đã có những quy định về quyền bảo vệ đối với bí mật đời t. Theo đó, việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý, trong trờng hợp ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, cha đủ 15 tuổi thì phải đợc cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc ngời đại diện của ngời đó đồng ý, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Quy định là vậy nhng xem ra để xác định thế nào là đời t và bí mật đời t- thì còn nhiều vấn đề cha đợc làm rõ. Pháp luật Việt Nam hiện nay cha có quy định rõ ràng về phạm vi khái niệm Bí mật đời t, đồng thời cũng cha có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm bí mật đời t rõ ràng. Khái niệm Bí mật đời t là cụm từ Hán Việt, có nguồn gốc chữ Hán và đợc Việt hoá. Do đó, có thể hiểu bí mật là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không cho ai biết. T có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Nh vậy bí mật đời tlà chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. Theo Tiến sĩ Lê Thu Hà Học Viện T Pháp, hiện nay Việt Nam cha có định nghĩa về bí mật đời t Theo chúng tôi, có thể hiểu bí mật là những gì cha đợc tiết lộ, chỉ một hoặc một số ngời nào đó biết, còn đời t là những gì liên quan đến sinh hoạt riêng t của cá nhân nào đó mà ngời đó không muốn nhiều ngời biết tặng bồ tiền, ngoại tình, tình trạng hôn nhân, sự dịch chuyển tài sản, di chúc thừa kế hoặc đơn giản là ai hay lui tới nhà . Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ trớc tới nay, chúng tôi cũng nhận thấy, cha có bất kỳ một quy định nào giải thích thế nào là bí mật đời t và danh mục bí mật đời t. 5 Website Email lienhe Tel Theo chúng tôi, bí mật đời t là những thông tin mà chỉ cá nhân ngời đó hoặc một số ngời thân thích biết đợc về cuộc sống riêng của mình mà họ không muốn tiết lộ cho nhiều ngời. Tiến sĩ Lê Thu Hà cho rằng tất cả những điều về cá nhân ngời đó nh nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng t mà ngời đó có đợc do hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt buộc họ phải công khai thì đó đợc xác định là bí mật đời t của họ. Theo quan điểm của một số ngời làm công tác pháp luật, bí mật đời t có thể hiểu là những gì gắn với nhân thân con ngời, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ gắn liền với một cá nhân mà ngời này không muốn cho ngời khác biết. Những bí mật đời t này chỉ có bản thân ngời đó biết hoặc những ngời thân thích, những ngời có mối liên hệ với ngời đó biết và họ cha từng công bố ra ngoài với bất kì ai. Bí mật đời t có thể đợc hiểu là chuyện trong nhà của cá nhân nào đó. VD con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, các loại th tín, điện thoại, điện tín. v. v. . II. Quyền đối với Bí mật đời t Theo điều 24 Bộ luật dân sự thì, quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho ngời khác, trừ trờng hợp pháp luật có quy định khác. Vẫn theo Bộ luật dân sự thì, quyền về nhân thân bao gồm quyền đối với họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền khai sinh, khai tử, quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đợc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể, quyền đợc bảo vệ danh dự, nhân phẩm Trong đó, quyền về bí mật đời t cũng là một quyền về nhân thân. Xin đơn cử một ví dụ quyền về hình ảnh rõ ràng là quyền của nhân thân, tuy nhiên chỉ những hình ảnh nóng ghi lại sinh hoạt riêng t của cá nhân bị ngời khác trng ra cho công chúng thì mới bị coi là xâm phạm bí mật đời t Cũng có trờng hợp Bộ luật dân sự quy định một cách rõ ràng, chẳng hạn nh bí mật th tín, điện tín. Chẳng hạn nh nếu vợ hoặc chồng vì ghen tuông mà nghe lén, ghi âm điện thoại, điện báo, đọc tin nhắn của ngời bạn đời mình cũng đợc coi là hành vi vi phạm. 6 Website Email lienhe Tel Tuy nhiên, nếu nh vì vợ hoặc chồng nói quá to mà ngời bên cạnh nghe đợc thì khó có thể coi là xâm phạm Theo thông t số 09/2005/TT - BCA ngày 05. 09. 2005 Hớng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 38/2005/NĐ - CP ngày 18. 03. 2005 của chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, nơi công cộng là các khu vực, địa điểm phục vụ chung cho mọi ngời nh vỉa hè, lòng đờng, quảng trờng, cơ sở kinh tế, văn hoá, nơi sinh hoạt cộng đồng; tại khu vực trụ sở cơ quan Nhà nớc, tổ choc chính trị - xã hội hoặc tại những nơi đợc trng dụng để phục vụ cho nhiều ngời trong một thời gian nhất định nơi tổ chức hội chợ, triển lãm hoặc khu thể thao sân bóng, sân quần vợt, chợ nổi Nh vậy những gì cá nhân phô diễn ra nơi công cộng thì không còn gọi là bí mật đời t nữa và những gì cá nhân khác có quyền về nơi công cộng ấy bình đẳng nh nhau. Ví dụ hình ảnh một cá nhân nào đó chop tại nhà hay studio muốn đăng báo, phát hành phải xin phép cá nhân đó. Nhng nếu ai đó đang tham gia phiên toà, chop hình chung nhiều ngời bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, hội đồng xét xử, ngời dự khán thì những hình ảnh đấy không còn bí mật đời t nữa mà là hình ảnh về sinh hoạt cộng đồng, tác giả bức ảnh đấy có quyền sử dụng mà không cần phải xin phép những ngời có mặt trong ảnh. Tơng tự, hôn nhân và gia đình là chuyện riêng t của cá nhân với nhau, nhng đã đem những chuyện riêng t ấy trình bày trớc phiên toà công khai thì những lời ấy không còn là bí mật đời t nữa, và nó đã đợc chính những ngời trong cuộc tự nguyện công khai hoá cho nên, không có cái bí mật đời t chung chung mà bí mật đời t phải đợc cụ thể trong từng trờng hợp rõ ràng. Công dân muốn pháp luật bảo vệ quyền về bí mật đời t thì công dân đó phải có nghĩa vụ chứng minh bí mật đó thuộc về cá nhân ngời đó mag cha từng công bố, công khai ở nơi công cộng. Pháp luật Việt Nam đã quy định một số quyền đối với bí mật đời t - Hiến pháp năm 1946, Điều 11 T pháp cha quyết định thì không đợc bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và th tín của công dân Việt Nam, không ai đợc xâm phạm một cách trái pháp luật. 7 Website Email lienhe Tel - Hiến pháp năm 1959, điều 28 Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, th tín đợc gĩ bí mật. Công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do c trú và đi lại. - Hiến pháp năm 1980, Điều 70, 71 Điều 70 Công dân có quyền đợc pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm. Điều 71 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai đợc tự ý vào chỗ ở của ngời khác nếu ngời đó không đồng ý, trừ trờng hợp đợc pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật. Bí mật th tín, điện thoại, điện tín đợc bảo đảm. Quyền tự do đi lại và c trú đợc tôn trọng, theo quy định của pháp luật. - Hiến pháp năm 1992, Điều 73 Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai đợc tự ý vào chỗ ngời khác nếu ngời đó không đồng ý, trừ trờng hợp đợc pháp luật cho phép. Th tín, điện thoại, điện tín của công dân đợc đảm bảo an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ th tín, điện tín của công dân phải do ngời có thẩm quyền tiến hành hoặc do pháp luật quy định. - Bộ luật dân sự năm 1995, Điều 34 1. Quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý hoặc nhân thân ngời đó đồng ý, nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền và phai đợc thực hiện theo quy định của pháp luậ. - Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 38 Quyền về bí mật đời t 1. Quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. 8 Website Email lienhe Tel 2. Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phải đợc ngời đó đồng ý hoặc nhân thân ngời đó đồng ý, nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền và phải đợc thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Th tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân đợc đảm bảo an toàn và bí mật. Việc kiểm soát th tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân đợc thực hiện trong trờng hợp pháp luật có quy định của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền. III. Quy định về Quyền đối với bí mật đời t của một số quốc gia trên thế giới 1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Quyền lợi của các công dân đợc đảm bảo về bản thân, nhà cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và tịch thu vô lý, sẽ không bị xâm phạm và sẽ không bị trát khám nhà nào đợc cấp nếu không phải là có lí do chắc chắn, căn cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, cần nhất trát đó phỉa tả rõ nơI và chốn phải khám xét và chỉ rõ ngời hay vật phải bắt giữ. Điều 4 - Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 2. Nhật Bản Nhà ở, th từ và các đồ vật đều đợc đảm bảo chống lại sự khám xét, tìm tòi và tịch thu, trừ có trát của toà án trình bày lý do, ghi chỗ khám xét, đồ vật có thể bị tịch thu theo điều kiện trong khoản 33. Mọi sự khám xét và tịch thu phải do lệnh của thẩm phán lí trát riêng biệt. Điều 35 - Hiến pháp Nhật Bản. 3. Trung Quốc Công dân có quyền đợc tự do về ngôn luận, th tín, báo chí, hội họp, tuần hành, biểu tình, tự do bãi công, tự do tín ngỡng và tự do không tín ngỡng và tuyên truyền chủ nghĩa vô thần. 9 Website Email lienhe Tel Tự do cá nhân của công dân và nhà ở của họ là bất khả xâm phạm. Không một công dân nào có thể bị bắt nếu không có quyết định của toà án, chứng nhận hoặc phê chuẩn của một cơ quan an ninh. Điều 28 - Hiến pháp CHND Trung Hoa. 4. Thuỵ Điển Mọi công dân đợc bảo vệ chống lại mọi biện pháp do một nhà chức trách thực hiện đối với họ thuộc loại khám xét ngời hoặc một sự xâm phạm cỡng bức đối với thân thể thuộc loại khám xét, mọi việc xen vào những quan hệ tôn giáo hoặc th tín, điện tín hoặc nghe điện bí mật. Điều 3 - Hiến pháp Thuỵ Điển. 5. Pháp Mỗi ngời có quyền đợc tôn trọng đời t của mình. Thẩm phán có thể ngoài việc quyết định bồi thờng thiệt hại, quyết định mọi biện pháp, nh quyền trừ, kê biện và các biện pháp khác nằm ngăn chặn hoặc chấm dứt việc vi phạm đến sự sâu kín của đời t, các biện pháp này trong trờng hợp cấp bách có thể đợc quy định theo thủ tục cấp thẩm. Điều 9 - Luật Dân sự Pháp. Nhìn chung, quy định của các quốc gia khác về cơ bản cũng giống nh Việt Nam đều khẳng định quyền đối với bí mật đời t cá nhân đợc tôn trọng và đợc pháp luật bảo vệ. Bí mật đời t của một ngời có mối quan hệ hữu cơ với danh dự, uy tín, nhân phẩm của ngời đó. Ngời có hành vi làm lộ bí mật đời t của ngời khác bị coi là vi phạm quyền nhân thân của cá nhân. Ngời có hành vi làm lộ bí mật đời t của ngời khác phải chịu trách nhiệm dân sự, khi có đủ 4 điều kiện sau - Có hành vi làm lộ bí mật đời t trái với ý chí của ngời có bí mật đời t. - Có hậu quả là sự giảm sút về uy tín, danh dự, nhân phẩm có thể xác định đợccủa ngời có đời t và làm cho những ngời khác hình dung sai về nhân phẩm, danh dự của ngời đó. - Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cố ý làm lộ bí mật đời t của một ngời với những tổn hại về uy tín, nhân phẩm của ngời có đời t. 10 [...]... nhiều vấn đề lớn, sâu sắc cho cả gia đình, xã hội Trong đề tài này cá nhân em muốn đợc đề cập đến vấn đề làm lộ bí mật đời t của ngời khác, xâm phạm hình ảnh cá nhân Có thể nói rằng quyền đối với bí mật đời t là một quyền cơ bản gắn với con ngời Bí mật đời t của cá nhân là những mối quan hệ song phơng, đa phơng trong tông thể các mối quan hệ xã hội mà ngời đó đã và đang tham gia, từ đó bộc lộ khả năng,... nào là bí mật đời t, cái nào không phải là bí mật đời t vì có quá nhiều chi tiếtTheo ý kiến của thẩm phán Tôn Văn Thành TAND Quận 12 Tp Hồ Chí Minh Bí mật đời t là rất khó bao quát hết và mọi ngời có thể biết đợc cái gì là bí mật đời t mà không xâm phạm và thẩm phán có thể áp dụng xử lý đợc Hiện nay, dù chúng ta đã có một số văn bản quy định và điều chỉnh những hành vi xâm phạm đến bí mật đời t, tuy... - Ngời làm lộ bí mật đời t của ngời khác có lỗi cố ý với hành vi làm lộ 11 Website Email lienhe Tel B Thực tế xung quanh vấn đề việc vi phạm Bí mật đời t ở nớc ta I Hiểu thế nào về quyền đối với Bí mật đời t liên quan đến tác nghiệp báo chí Theo các chuyên gia pháp l , hiện nay cha có một danh mục nào liệt kê các bí mật đời t cần đợc bảo vệ Đây... báo Thuỷ Cúc ra to , đòi bồi thờng và xin lỗi ông do xâm phạm bí mật đời t Về phía nguyên đơn và bị đơn Ông Đức cho rằng cuốn sách kể lại và bình luận về diễn biến phiên toà xét xử vụ ly hôn của vợ chồng ông lầcn thiệp phi pháp vào chuyện hôn nhân gia đình 13 Website Email lienhe Tel ông, xúc phạm bí mật đời t Từ đ , ông yêu cầu NXB Trẻ và báo Tuổi Trẻ không... ngời khác Theo khoản 2, 3 Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 2 Việc thu thập, công bố thông tin, t liệu về đời t của cá nhân phảI đợc ngời đó đồng , nếu ngời đó đã chết, mất năng lực hành vi dân s , cha đủ 15 tuổi thì phải đợc cha, m , v , chồng, con đã thành niên hoặc ngời đại diện của ngời đó đồng , trừ trờng hợp thu thập, công bố thông tin, t liệu theo quy định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền... dân sự Nếu vi phạm quyền đối với bí mật đời t của cá nhân đôi khi dân ngời bị hại vào một hoàn cảnh không thể vợt qua, sống tự ti, thiếu lòng tin, tình yêu cuộc sống, nghi ngờ những ngời tốt sông quanh mình ; ảnh hởng đến danh d , nhân phẩm, uy tín của con ngời Mặc dù đã đợc cải chính thông tin, mặc dù đợc bồi thờng nhng hậu quả mà ngời bị hại phải chịu là rất lớn Bí mật đời t đâu phải là cái có thể trao... Sau khi bản án sơ thẩm đã tuyên, cả 3 đồng bị đơn đồng loạt kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm với lí do Bản án sơ thẩm không có căn cứ pháp luật Hội đồng xét xử đã lạm quyền, tự sáng tác luật, pháp luật cha có định nghĩa thế nào là bí mật đời t, mặt khác những thông tin công khai tại toà không thể đợc xem là bí mật Hơn nữa, tác phẩm Tổ ấm không đề cập đến tên tuổi cụ thể của... quyền đối với bí mật đời t còn cha đợc quy định một cách cụ thể và rõ ràng nên vẫn đang còn rất nhiều điều băn khoăn xung quanh vấn đề này II Các vụ việc có liên quan đến việc xâm phạm quyền đối với bí mật đời t Vụ việc thứ nhất Báo điện tử VietNamNet có đa tin Chiều 20 09 200 6, TAND Quận 3 đã tuyên báo Tuổi Tr , NXB Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc đã xâm phạm đời t ông Trần Tiến Đức khi xất bản, phát hành cuốn... cha có định nghĩa về bí mật đời t, nhng có thể hiểu tất cả những gì thuộc về cá nhân ngời đó nh nhân thân, tài sản, kể cả tài sản riêng t của ngời ta có đợc bởi hoạt động hợp pháp, pháp luật không bắt buộc họ phải công khai thì đó đợc xác định là đời t của họ Cá nhân em cũng đông ý với ý kiến của tiến sĩ Lê Thu H , quyền tài sản cũng là một bí mật đời t cá nhân Dới góc độ pháp luật, việc tiết lộ những... lộ khả năng, quan điểm, phong cách, lối sống, những niềm vui, nỗi buồn hay những bất hạnh khác mà ngời đó đã và đang phải trải qua ; những cá tính trong lao động, học tập, sinh hoạt có tính chất riêng gắn liền với nhân thân của ngời đ , không giống ngời khác mà ngời đó không muốn thổ lộ cho ai biết Bí mật đời t cá nhân đợc pháp luật bảo vệ thông qua những quy định trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự Nếu . Đề tài Bí mật đời t vấn đề lí luận và thực tiễn Kết Cấu Bài Viết 1. Phần mở đầu 2. Nội Dung a. Phần lý luận I. Khái niệm Bí mật đời. còn là bí mật đời t nữa, và nó đã đợc chính những ngời trong cuộc tự nguyện công khai hoá cho nên, không có cái bí mật đời t chung chung mà bí mật đời t - Xem thêm -Xem thêm Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn, Bí mật đời tư , vấn đề lí luận và thực tiễn, HNMO - Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XV, sáng 10-6, các đại biểu Quốc hội Đoàn thành phố Hà Nội thảo luận ở tổ về các dự án Luật Căn cước công dân sửa đổi, Luật Viễn thông sửa đổi. Trong đó, các đại biểu nhấn mạnh việc cần thiết quản lý, sử dụng thông tin để bảo vệ quyền công dân, bí mật đời tư của công dân khi sửa đổi Luật Căn cước công dân. Các đại biểu Quốc hội Đoàn thành phố Hà Nội thảo luận ở tổ sáng 10-6. Tạo bước đột phá về chuyển đổi Các đại biểu cơ bản đồng ý với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng và An ninh về sự cần thiết ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực,,, Đại biểu Nguyễn Tuấn Thịnh Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng 10-6. Tuy nhiên, các đại biểu cũng cho rằng để việc xây dựng, ban hành Luật Căn cước được chặt chẽ, phát huy hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ, sớm hoàn thiện ứng dụng tài khoản định danh điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy tối đa hiệu quả của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước. Đại biểu Lê Nhật Thành Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng 10-6. Theo Trung tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, các nội dung trong dự án Luật Căn cước công dân sửa đổi góp phần quan trọng vào “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Chính phủ. Để thực hiện thành công Chương trình này, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước có ý nghĩa rất quan trọng, cùng với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành. Về giấy chứng nhận căn cước và quản lý người gốc Việt Nam Điều 7, đại biểu nhất trí việc bổ sung đối tượng áp dụng là người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch. Dẫn chứng thực tế nhiều người dân vùng đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống tại đây lâu nhưng chưa có giấy tờ hợp lệ, việc cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam sẽ mở ra hướng giải quyết đối với một bộ phận người gốc Việt Nam có nguyện vọng cần có một loại giấy tờ tùy thân, giúp họ ổn định cuộc sống, có việc làm, con em được đến trường, bảo đảm quyền lợi trong giao dịch dân sự, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Trung tướng Nguyễn Hải Trung, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ. Về người được cấp thẻ căn cước Điều 20, đại biểu Nguyễn Hải Trung đồng ý với phương án cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi nhằm tạo thuận lợi trong việc khám, chữa bệnh, sử dụng phương tiện công cộng, đi học, thay vì phải dùng giấy khai sinh bản giấy nhiều bất tiện, không có đủ thông tin sinh trắc. Trao đổi thêm thông tin về việc tích hợp các cơ sở dữ liệu chuyên ngành gắn với căn cước công dân, đại biểu nhấn mạnh dự thảo Luật không chỉ phục vụ hoạt động của ngành Công an, mà còn nhiều ngành khác. Chú trọng bảo vệ thông tin cá nhân Đại biểu Nguyễn Thị Lan cho biết, hiện nay, chúng ta đang triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Vì thế, việc ban hành dự án Luật này giúp người dân giảm thiểu giấy tờ, thủ tục hành chính khi giải quyết trên môi trường mạng, tăng cường công khai, minh bạch. Đại biểu Nguyễn Thị Lan Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng 10-6. Về thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10, đại biểu cho rằng, việc mở rộng, bổ sung thông tin lưu trữ là cần thiết, đồng thời việc tăng cường chia sẻ, kết nối giữa các cơ sở dữ liệu sẽ phát huy tối đa hiệu quả sử dụng dữ liệu, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và tiệm cận với xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, đại biểu cũng đề nghị nghiên cứu kỹ từng loại thông tin quy định tại các điều này để bảo đảm hiệu quả, có tính khả thi. Về tích hợp thông tin vào thẻ căn cước Điều 23, đại biểu nhất trí việc tích hợp một số thông tin về công dân vào thẻ căn cước nhằm góp phần giảm giấy tờ cho công dân, tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức và công dân trong các giao dịch hành chính, dân sự, đi lại, cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc tích hợp thông tin phải đi đôi với việc bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và quản lý, sử dụng thông tin để bảo vệ quyền công dân, bí mật đời tư của công dân. Cơ bản nhất trí với các nội dung dự thảo Luật, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm kiến nghị cơ quan soạn thảo bổ sung mục “tên thường dùng” trong thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10. Đại biểu dẫn chứng trường hợp của cá nhân đại biểu, có tên khai sinh là Đặng Minh Châu nhưng tên thường dùng là Thích Bảo Nghiêm. Đại biểu cũng nhất trí cao với mục “Nhóm máu” trong Điều 10, bởi khi người dân đi cấp cứu, khám, chữa bệnh thì thông tin này rất cần và không phải xét nghiệm lại. Đại biểu Nguyễn Anh Trí Đoàn Hà Nội thảo luận tại tổ sáng, 10-6. Liên quan đến thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư Điều 10, đại biểu Nguyễn Anh Trí góp ý vào việc ghi “Quê quán”. Đại biểu dẫn chứng việc bản thân sinh sống và làm việc hơn 50 năm tại Hà Nội, nhưng mỗi khi cần phải xác minh thủ tục giấy tờ, phải về Quảng Bình. “Bản thân tôi, có thể xác minh được vì còn nhiều người ở địa phương biết. Nhưng các con, cháu tôi sau này mà về Quảng Bình để xác minh lý lịch thì sẽ không ai biết vì chúng không sinh ra và lớn lên ở đó. Vì thế, cơ quan soạn thảo cần tính đến phương án này để giảm phiền hà về thủ tục cho công dân”, đại biểu kiến nghị. PHẦN MỞ ĐÂU Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư cá nhân Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái “danh” của mỗi con người, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh Khi nói đến quyền nhân thân người ta thường quan tâm đến những quyền cụ thể như quyền đối với họ, tên; quyền đối với hình ảnh của mình; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền được bảo vệ bí mật đời tư Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định chưa nhiều, trong cuộc sống thường ngày, tên họ, hình ảnh, đời tư của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; người bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thường thì người xâm phạm chỉ bị đền bù tượng trưng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho người đó. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trường hợp người bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhưng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của người đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm nhân thân của người khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thường bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử thì riêng mức bồi thường thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lương tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa người với người – giữa người vi phạm với người bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nước đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm chưa đáng kể thì có thể bị Nhà nước xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì người thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. Nói tóm lại, quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài “ Bí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực tiễn. ” NỘI DUNG I. Lý luận chung về “Bí mật đời tư” 1. Khái niệm “Bí mật đời tư” 2. Quyền bí mật đời tư 3. Một số quy định về “Bí mật đời tư” trên thế giới II. Thực tiễn về vấn đề “Bí mật đời tư” ở Việt Nam 1. Vấn đề “Bí mật đời tư” trong hệ thống pháp luật hiện hành Chế định về thông tin cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam Những “kẽ hở” của Luật Báo chí 2. Các vụ việc liên quan đến “ Bí mật đời tư” Báo chí xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân? Mobifone làm lộ thông tin khách hàng. Bí mật đời tư của một diễn viên KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 trang Chia sẻ lvcdongnoi Lượt xem 3114 Lượt tải 8 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bí mật đời tư - Vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênPHẦN MỞ ĐÂU Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Đó là các quyền có liên quan mật thiết đến danh dự, uy tín, nhân phẩm … Pháp luật đang ngày càng chú trọng đến việc bảo vệ quyền nhân thân mà đặc biệt là trong lĩnh vực hình ảnh cá nhân, bí mật đời tư cá nhân … Nói chung, quyền nhân thân là thứ quyền để bảo vệ cái “danh” của mỗi con người, bao gồm nhiều khái niệm danh dự, danh tiếng, danh hiệu, thanh danh, bút danh …Khi nói đến quyền nhân thân người ta thường quan tâm đến những quyền cụ thể như quyền đối với họ, tên; quyền đối với hình ảnh của mình; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền được bảo vệ bí mật đời tư … Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, quyền tự do dân chủ càng được mở rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với các biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Ví dụ ở nước ta, trước đây các quyền nhân thân được pháp luật quy định chưa nhiều, trong cuộc sống thường ngày, tên họ, hình ảnh, đời tư của cá nhân công dân dễ bị bêu riếu trên mặt báo với nhiều động cơ khác nhau ; người bị xúc phạm dù chịu rất nhiều khó khăn, khổ sở, nhục nhã mà không biết làm cách nào để tự vệ, buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xúc phạm đến bản thân mình, gia đình mình. Thường thì người xâm phạm chỉ bị đền bù tượng trưng bằng cách xin lỗi chứ không có biện pháp nào đền bù thoả đáng về vật chất và tinh thần cho người đó. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại cho cá nhân đó mà kể cả trường hợp người bị xâm phạm không bị thiệt hại gì, thậm chí là có lợi cho họ, nhưng về nguyên tắc hễ không có sự đồng ý của người đó thì bị coi là vi phạm. Hiện nay pháp luật đã quy định các biện pháp để bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm nhân thân của người khác thì dù cố ý hay vô ý thì đều phải có nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai; nếu xâ phạm danh dự nhân phẩm, uy tín thì phải bồi thường bằng một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bi xâm phạm. Nếu chỉ xâm phạm đanh dự, nhân phẩm, uy tín thì bồi thường thiệt hại tinh thần tối đa bằng 10 tháng lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong tong thời kỳ, hiện nay là 290. 000 đồng /tháng. Nếu việc xâm phạm gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, thiệt hại tính mạng, người bị xúc phạm lo lắng, buồn phiền sinh ra bệnh tật, tự tử … thì riêng mức bồi thường thiệt hại tinh thần có thể đến tối đa 60 tháng lương tối thiểu. Đó là trách nhiệm pháp lí giữa người với người – giữa người vi phạm với người bị xâm phạm ; còn đối với xã hội nói chung thì Nhà nước đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm nhân thân của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính nguy hiểm chưa đáng kể thì có thể bị Nhà nước xử lý hành chính ; nếu nguy hiểm ở mức độ đáng kể thì người thực hiện hành vi ấy có thể bị xử lý hình sự. Nói tóm lại, quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định một cách thích đáng, còn nhiều bất cập. Do tầm hiểu biết và phạm vi tài liệu còn hạn chế nên bài viết này chỉ tìm hiểu tới một khía cạnh nhỏ của quyền nhân thân - đề tài “ Bí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực tiễn. ” NỘI DUNG I. Lý luận chung về “Bí mật đời tư” 1. Khái niệm “Bí mật đời tư” Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quy định rõ ràng về phạm vi của khái niệm “bí mật đời tư”. Điều 34 Bộ Luật Dân Sự 1995 chỉ ghi nhận ngắn gọn “1- Quyền đối với bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2- Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý hoặc thân nhân của người đó đồng ý, nếu người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3- Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu huỷ thư tín, điện tín, nghe trộm điện thoại hoặc có hành vi khác nhằm ngăn chặn, cản trở đường liên lạc của người khác. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật quy định và phải có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân”. Như vậy, theo Điều luật này, bí mật đời tư được giới hạn trong phạm vi “thư tín, điện tín, điện thoại”, “đường liên lạc”. Điều 38 BLDS 2005 quy định quyền bí mật đời tư trong phạm vi rộng hơn, tức bổ sung thêm “các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân”, còn nội dung khác vẫn giữ nguyên theo tinh thần BLDS 1995 “1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Như vậy, Bộ luật dân sự 2005 cũng không đưa ra khái niệm “bí mật đời tư”. Đây chính là một trong những khó khăn khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến “bí mật đời tư”. Hiện nay, cũng chưa có văn bản pháp luật nào giải thích khái niệm “bí mật đời tư” rõ ràng. Khái niệm “bí mật đời tư” là một cụm từ Hán - Việt, có nguồn gốc từ chữ Hán và được Việt hóa. Do đó, có thể hiểu “bí mật” là những chuyện kín đáo, chuyện muốn che giấu, không có ai biết. “Tư” có nghĩa là riêng, việc riêng, của riêng. Như vậy, “bí mật đời tư” là chuyện thầm kín của một cá nhân nào đó. “Theo quan điểm của một số người làm công tác pháp luật, “bí mật đời tư” có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân con người, là quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân mà người này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản thân người đó biết hoặc những người thân thích, người có mối liên hệ với người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài cho bất kỳ ai. “Bí mật đời tư” có thể hiểu là “chuyện trong nhà” của cá nhân nào đó. Ví dụ con ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khỏe, bệnh tật, các loại thư tín, điện thoại, điện tín, Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Luật thì khái niệm bí mật đời tư được bao quát trên các phương diện “tình cảm, tinh thần” và “nghề nghiệp, vật chất”. Trong Luận án tiến sĩ về “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Tiến sĩ Lê Đình Nghị có định nghĩa về khái niệm bí mật đời tư như sau “Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu gọi chung là thông tin về tinh thần, vật chất, quan hệ xã hội hoặc những thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật thừa nhận”. Như vậy, quan điểm này cũng chỉ ra rằng bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá nhân, chỉ có thể mình họ hoặc một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy thì cũng chưa bao quát được nội hàm của khái niệm bí mật đời tư, bởi lẽ nếu hiểu bí mật đời tư là những thông tin “chưa từng công bố cho bất kỳ ai” thì cũng không đúng. Có trường hợp thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người tiếp nhận thông tin phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin thì thông tin đó vẫn được coi là “bí mật đời tư”. 2. Quyền bí mật đời tư Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Việc bảo vệ quyền bí mật đời tư còn đảm bảo cho việc thực hiện một số quyền khác của cá nhân như quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể, quyền tự do tín ngưỡng… được đảm bảo triệt để hơn. Xác định rõ tầm quan trọng của quyền bí mật đời tư với cá nhân, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền này của mỗi cá nhân. Điều 73 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đựơc bảo đảm an toàn bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín cảu công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.” Cụ thể hoá quy định này của hiến pháp Bộ luật dân sự 2005 dành riêng điều 38 quy định về quyền bí mật đời tư của cá nhân. Không chỉ luật dân sự, một số ngành luật khác như luật hình sự, luật hôn nhân gia đình, luật báo chí…cũng có những quy định bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. 3. Một số quy định về “Bí mật đời tư” trên thế giới Quyền bí mật đời tư là quyền cơ bản trong hệ thống các quyền nhân thân của cá nhân. Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và một số công ước khác của Liên Hiệp Quốc. Điều 12 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền ghi nhận “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín của cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại can thiệp và xâm phạm như vậy” Trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1996, quyền bí mật đời tư được quy định tại điều 17 “ ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. 2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những sự can thiệp hoặc xúc phạm như vậy.” II. Thực tiễn về vấn đề “Bí mật đời tư” ở Việt Nam 1. Vấn đề “Bí mật đời tư” trong hệ thống pháp luật hiện hành Chế định về thông tin cá nhân trong hệ thống pháp luật Việt Nam Cho đến nay, Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh các hành vi liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân một cách hệ thống. Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập và sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước đã ngày càng nhận thức rõ và quan tâm hơn đến vấn đề quan trọng này. Điều này được thể hiện trong các chỉ thị của Đảng và Nhà nước, các văn bản luật được ban hành trong thời gian gần đây. Tại Chỉ thị số 27/CT-TƯ ngày 16 tháng 10 năm 2008 về lãnh đạo thực hiện cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã yêu cầu “chú ý bảo mật thông tin theo quy định của pháp luật, nhất là bảo mật thông tin cá nhân…”. Xem xét một cách có hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy các nội dung điều chỉnh vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được quy định ngày càng rõ hơn từ cấp độ luật đến các văn bản hướng dẫn luật. Đã có quy định các hình thức xử phạt, chế tài cụ thể từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền đến xử lý hình sự đối với các trường hợp vi phạm nặng. Ở mức độ văn bản pháp luật dân sự, Bộ Luật dân sự được Quốc hội thông qua tháng 6 năm 2005 đã đưa ra một số quy định nguyên tắc về bảo vệ thông tin cá nhân tại Điều 31 “Quyền của cá nhân đối với hình ảnh” và Điều 38 “Quyền bí mật đời tư”. Điều 31 quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý và nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Điều 38 quy định một số nội dung về quyền bí mật đời tư. Theo đó, quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh các giao dịch điện tử là Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2005 đã dành một điều Điều 46 để quy định chung về bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua Luật Công nghệ thông tin, quy định tổng thể về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Luật Công nghệ thông tin đã có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm đối với việc thu thập, xử lý, sử dụng, lưu trữ thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng tại các Điều 21, Điều 22. Điều 72 quy định các vấn đề liên quan đến việc bảo đảm bí mật đối với thông tin riêng hợp pháp của tổ chức, cá nhân trao đổi, truyền đưa, lưu trữ trên môi trường mạng. Ngày 10 tháng 4 năm 2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2007/NĐ-CP quy định hành vi vi phạm, hình thức, mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Nghị định này đã đưa ra hình thức phạt, mức phạt đối với một số hành vi vi phạm các quy định về thu thập, xử lý, sử dụng, lưu trữ, trao đổi, bảo vệ thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng. Cùng với việc nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và sự phát triển vô cùng nhanh chóng của công nghệ, nhiều loại hình tội phạm mới ra đời, trong đó đáng chú ý là các tội phạm có sử dụng công nghệ cao. Trước tình hình đó, các cơ quan quản lý nhà nước đã kiến nghị sửa đổi Bộ Luật hình sự do Quốc hội ban hành năm 1999. Dự kiến trong nửa đầu năm 2009, Quốc hội sẽ thông qua Bộ Luật hình sự sửa đổi. Tại dự thảo Bộ Luật hình sự sửa đổi có bổ sung thêm Điều 226 “Tội đưa trái pháp luật thông tin lên mạng viễn thông, mạng máy tính hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng viễn thông, mạng máy tính”. Đây sẽ là căn cứ để xử lý hình sự một số hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng. Song song với việc ban hành các quy định chi tiết điều chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn, an ninh thông tin, các cơ quan quản lý nhà nước cũng đã quan tâm tới việc nâng cao năng lực phòng chống tội phạm công nghệ cao. Trước tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao có xu hướng gia tăng, năm 2005 Bộ Công An đã thành lập Phòng Chống tội phạm công nghệ cao trực thuộc Cục Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế C15. Trong thời gian vừa qua, Phòng Chống tội phạm công nghệ cao đã phối hợp hiệu quả với các cơ quan hữu quan điều tra, triệt phá nhiều vụ tội phạm công nghệ cao, trong đó có các vụ việc liên quan tới việc ăn cắp và sử dụng thông tin cá nhân bất hợp pháp. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, yêu cầu cấp thiết phải có một tổ chức quy mô lớn, có năng lực, trình độ chuyên môn cao và đủ quyền hạn để đấu tranh với các loại hình tội phạm mới này. Nhận thức được vấn đề này, trong thời gian vừa qua, theo sự chỉ đạo của Chính phủ Bộ Công an đang triển khai các công tác chuẩn bị để có thể thành lập Cục Phòng chống tội phạm công nghệ cao trong năm 2009. Những “kẽ hở” của Luật Báo chí Theo luật dân sự Muốn sử dụng ảnh cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác. Nghị định 51 hướng dẫn thi hành Luật Báo chí thì quy định “Không được đăng, phát ảnh cá nhân mà không có chú thích rõ ràng làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các buổi xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án”. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có giải thích thế nào là “vì lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng”. Đưa ảnh một kẻ trộm, một quan chức tham ô, một giám đốc cố ý làm trái... để mọi người cảnh giác, để răn đe, phòng ngừa chung có phải là vì lợi ích công cộng, vì lợi ích của nhà nước? Buộc báo chí phải xin phép những người này thì thật là vô lý nhưng nếu không xin phép, họ có thể viện dẫn luật dân sự để kiện báo. Với hướng dẫn của Nghị định 51, liệu có thể hiểu là báo chí được đăng tất, miễn sao có chú thích rõ ràng để không làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó? Riêng ảnh ở các phiên xử công khai, báo có được đăng ảnh đặc tả bị cáo hay chỉ được đăng ảnh quang cảnh phiên tòa? Ảnh đương sự trong các vụ án dân sự, lao động, kinh tế, hành chính thì sao? Khái niệm “trọng án” hết sức mù mờ, không có trong luật hình sự. Vậy đối với bị cáo thường thì sao? Tháng 7-2005, tại một tòa án cấp quận ở Chí Minh, thư ký và chủ tọa không cho phóng viên chụp ảnh bị cáo. Báo Pháp Luật Chín Minh phản ánh và mở diễn đàn. Có hai luồng ý kiến khác nhau. Một luồng cho rằng tòa xử công khai, phóng viên có quyền chụp ảnh và đưa lên báo. Bên còn lại cho rằng dù họ là bị cáo, ra tòa cũng phải tôn trọng quyền nhân thân của họ. Việc sử dụng có thể gây tổn hại danh dự, nhân phẩm, uy tín của bị cáo. Sau nhiều ý kiến tranh cãi trên, lãnh đạo Tòa án Chí Minh tạm giải thích Được phép chụp ảnh tại tòa nhưng sử dụng thế nào là do báo, báo chịu trách nhiệm. Lãnh đạo Tòa án tối cao thì nói có thể phải phân làm hai loại loại bị cáo đồng ý cho chụp thì mới được chụp, loại phục vụ việc tuyên truyền cho nhân dân thì dù bị cáo không đồng ý vẫn được chụp. Vị này nói sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa-Thông tin ra thông tư liên tịch để hướng dẫn việc tác nghiệp của báo chí tại các phiên tòa, trong đó có chuyện chụp ảnh, sử dụng ảnh nhưng đến nay vẫn chưa có. Báo chí không được tiết lộ bí mật nhà nước. Nhưng bí mật nhà nước bao gồm những gì, ít ai trong chúng ta nắm tường tận, đầy đủ. Hiện nay có ít nhất 46 văn bản quy định danh mục bí mật nhà nước của các bô, ngành ban hành trong các năm 2002-2004. Nhưng đọc vào thấy hết sức mênh mông. Báo chí cũng không được xâm phạm bí mật đời tư. Có nghĩa là muốn thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân thì phải được người đó đồng ý. Nhưng chưa có một định nghĩa rõ ràng thế nào là bí mật đời tư, phạm vi bao gồm những gì cũng không rõ. 2. Các vụ việc liên quan đến “ Bí mật đời tư” Báo chí xâm phạm qyuền bí mật đời tư của công dân? Ngày 14/9/2006, Tòa án nhân dân Quận 3 đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ kiện xâm phạm bí mật đời tư giữa nguyên đơn ông Trần Tiến Đức đối với các đồng bị đơn là Nhà xuất bản Trẻ, Báo Tuổi Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc. Sau gần 10 năm quyển sách được phát hành, ông Đức, một nhân vật liên quan đến bài viết đã khởi kiện đòi bồi thường. Nội dung vụ việc như sau Ông Trần Tiến Đức, ngụ tại phường 10, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh được Toà án nhân dân Quận Phú Nhuận xử cho ly hôn với vợ của ông là bà vào ngày 15 tháng 12 năm 1994. Tháng 10 năm 1996, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Báo Tuổi Trẻ xuất bản cuốn “Ký sự pháp đình”, tác giả là nhà báo Thuỷ Cúc, trong đó có bài “Tổ ấm”. Đây là bài ký sự, có nội dung viết về phiên toà ly hôn của ông Trần Tiến Đức, mặc dù họ tên của nguyên đơn đã được viết tắt là Sau khi cuốn sách được phát hành, một người bạn của ông Đức đọc và nói lại nội dung cho ông Đức biết. Giữa năm 2006, ông Trần Tiến Đức đã khởi kiện tại Toà án nhân dân Quận 3, TP Hồ Chí Minh đối với các đồng bị đơn Nhà xuất bản Trẻ, Báo Tuổi Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc. Theo nội dung đơn khởi kiện, ông Đức cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi bài “Tổ ấm” đề cập đến quá khứ của bà vợ cũ của ông và quyền truy nhận cha cho con của ông, bên cạnh đó nhà báo Thuỷ Cúc còn nêu quan điểm cá nhân xúc phạm đời sống riêng tư của ông Đức… Từ đó, ông Đức đưa ra yêu cầu trong nội dung đơn khởi kiện Cấm tái bản, cấm lưu hành “Tổ ấm”, đăng cải chính xin lỗi trên báo, bồi thường tinh thần bằng tiền theo mức cụ thể như sau tác giả nhà báo Thuỷ Cúc bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng. Phản bác lại những yêu cầu do phía nguyên đơn đưa ra, đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là vô lý, không thể chấp nhận được. Bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm ký sự pháp đình, không bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cũng như bí mật riêng tư của ai – mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải là bí mật đời tư. Thông qua hiện thực khách quan, bài báo đã gửi đến bạn đọc một thông điệp. Ngoài ra bài viết đã được “gọt rũa” cẩn thận, đã viết tắt tên của những người liên quan. Nhà xuất bản Trẻ không đồng ý đăng cải chính trên báo bởi theo Nhà xuất bản trẻ, “bí mật” là những gì không được công khai, mặt khác đây là bài viết dạng ký sự nên tác giả có thể lồng thêm ý kiến cá nhân vào. Đại diện Báo Tuổi Trẻ cũng trình bày Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ và cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm nêu trên nên không liên quan đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện. Mặc dù bản án đã được tuyên, thế nhưng, qua phiên toà này, vấn đề pháp lý đặt ra những thông tin công khai tại phiên toà dân sự có còn được xem là bí mật đời tư; phạm trù bí mật đời tư được pháp luật khái quát như thế nào và ở mức độ nào thì không được công bố...? Theo Hội đồng xét xử, pháp luật chưa có quy định rõ bí mật đời tư là gì, bí mật đời tư đến mức nào thì được pháp luật bảo vệ và cấm tiết lộ... Bí mật đời tư của công dân trong những vụ án ly hôn được xét xử công khai tại tòa chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật. Ông Đức cho rằng cuốn sách kể lại và bình luận về diễn biến phiên tòa xét xử vụ ly hôn của vợ chồng ông là can thiệp phi pháp vào chuyện hôn nhân của gia đình ông, xúc phạm bí mật đời tư. Từ đó, ông yêu cầu Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành và không được tái bản quyển sách này; Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ cùng đăng cải chính trên Báo SGGP, Báo Nhân dân, Báo Tuổi trẻ 3 kỳ. Đồng thời, nhà báo Thủy Cúc, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ liên đới bồi thường cho ông 10 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần Nhà báo Thuỷ Cúc bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng. Đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc tại phiên toà cho rằng yêu cầu của nguyên đơn là vô lý không thể chấp nhận. Bài viết "Tổ ấm" là ấn phẩm ký sự pháp đình, không nhằm bôi nhọ danh dự xâm phạm đời tư của ai. Mà đó là nhiệm vụ của người cầm bút với cái tâm trong sáng thể hiện những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải những bí mật đời tư. Thông qua một hiện thực khách quan của cuộc sống, người viết báo gửi đến người đọc một thông điệp. Bài viết không vi phạm thuần phong mỹ tục, điều cấm của luật. Người viết cũng đã cẩn trọng viết tắt tên những người có liên quan. Đại diện Báo Tuổi Trẻ trình bày Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo Tuổi Trẻ cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm trên nên không liên quan gì đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện. Nhà xuất bản Trẻ cũng không đồng ý đăng cải chính trên báo. Theo Nhà xuất bản Trẻ bí mật là những gì không được công khai. Những thông tin đã công bố công khai tại phiên toà thì không còn được xem là bí mật nữa. Hơn nữa đây là bài ký sự nên tác giả có thể lồng ý kiến quan điểm cá nhân vào. Trong phần tranh luận, ông Đức cho rằng cuốn ký sự pháp đình có bài viết "Tổ ấm" chính là ấn phẩm của Báo Tuổi Trẻ vì trên trang bìa của cuốn sách có in logo của Báo Tuổi Trẻ. Trong quyển sách cũng có ghi " Nhà xuất bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ phối hợp". Theo ông Đức đó là sự liên kết giữa hai đơn vị này, nên cả hai phải liên đới bồi thường. Ông Đức cũng cho rằng, bài viết viết tắt tên nhưng lại đề cập đến công việc, con người ông đó không phải là sự đề cao như phía bị đơn trình bày mà là để mọi người nhận ra ông. Thậm chí bài viết còn vẽ hình biếm hoạ 3 đứa con của ông đó là sự xúc phạm. Hơn nữa nếu bài viết tiếp tục được phát hành sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các con ông về sau. Trong khi đó, Luật sư Nguyễn Văn Hậu và Nguyễn Thị Thuý Hường bào chữa cho Báo Tuổi Trẻ cho rằng phiên toà ly hôn công khai nên những thông tin diễn biến tại phiên toà không còn là bí mật đời tư. Ngay sau thời điểm diễn ra phiên toà một số báo chí đã viết bài đưa tin về vụ kiện, còn bài "Tổ ấm" mãi đến năm 1996 mới phát hành sau khi bản án ly hôn đã có hiệu lực. Nếu nói tiết lộ bí mật thì những báo phát hành trước mới là người tiết lộ. Ngoài ra, nếu nói xúc phạm đời tư thì người bị xúc phạm là bà T ông Đức không có quyền khởi kiện thay nếu không có uỷ quyền của bà T. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã quyết định nghị án kéo dài và tuyên án vào sáng 20/9/2006. Tuy nhiên, sau khi trở lại làm việc, Hội đồng xét xử đã quyết định quay trở lại phần xét hỏi và tranh luận lại và đến buổi chiều mới tuyên án được. Theo nhận định của Hội đồng xét xử, bí mật đời tư của công dân được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định rõ bí mật đời tư là gì, bí mật đời tư đến mức nào thì được pháp luật bảo vệ và cấm tiết lộ. Do vậy, trong vụ án này đã có sự xung đột pháp luật giữa quyền công dân bí mật đời tư và quyền tự do báo chí... Bí mật đời tư của công dân trong những vụ án ly hôn được xét xử công khai tại tòa chưa được quy định rõ trong các quy định của pháp luật. Mặc dù nhận định là thế nhưng Hội đồng xét xử lại tự đưa ra khái niệm về bí mật đời tư bí mật đời tư là những quyền riêng tư của con người, trong đó bí mật là điều giữ kín không để lộ ra cho người khác biết, riêng tư là những vấn đề thuộc cá nhân người đó để áp dụng vào vụ án. Theo Hội đồng xét xử, trong bài ký sự "Tổ ấm", nhà báo Thủy Cúc đã mô tả khá chi tiết toàn bộ diễn biến phiên tòa ngày 15/12/1994 có một số chi tiết tiết lộ bí mật đời tư của ông Đức. Bên cạnh đó, nhà báo Thủy Cúc còn có những bình luận xâm phạm đến danh dự ông Đức. Phía Báo Tuổi Trẻ đã có chủ trương cùng Nhà xuất bản Trẻ cho xuất bản ký sự pháp đình có bài viết "Tổ ấm"; để cho Nhà xuất bản Trẻ sử dụng logo Báo Tuổi Trẻ in lên cuốn ký sự pháp đình mà không hề có động thái phản đối nào. Chính động thái không làm gì của Báo Tuổi Trẻ đã làm tăng giá trị cuốn ký sự pháp đình có bài "Tổ ấm", tạo điều kiện cho cuốn sách này phát hành tốt hơn. Do vậy cũng phải liên đới chịu trách nhiệm với Nhà xuất bản Trẻ và nhà báo Thủy Cúc. Từ đó, Hội đồng xét xử đã tuyên buộc nhà báo Thủy Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phải đăng lời cải chính trên Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ/1bị đơn; buộc 3 đồng bị đơn phải liên đới bồi thường cho ông Đức 1,75 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần nhà báo Thủy Cúc 1 triệu, Nhà xuất bản Trẻ 500 nghìn và Báo Tuổi Trẻ 250 nghìn đồng. Tòa cũng tuyên buộc Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành và không được tái bản cuốn ký sự pháp đình của nhà báo Thủy Cúc có bài viết "Tổ ấm". Thực tế xét xử cho thấy vụ kiện của ông Đức chỉ là một trường hợp hiếm hoi. Việc báo chí đưa những thông tin có tính chất xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân không phải là chuyện hiếm thấy, thậm chí phổ biến. Tuy nhiên, việc pháp luật còn thiếu những quy định cụ thể và người dân cũng ý thức chưa đầy đủ về quyền lợi của mình nên chưa có những biện pháp bảo vệ thích đáng với quyền quan trọng này. Vụ việc trên cũng chính là sự biểu hiện sự xung đột giữa quyền bí mật đời tư với quyền tự do thông tin, tự do báo chí được quy định tại Điều 69 Hiến pháp và một số văn bản pháp luật khác. Mobifone làm lộ thông tin khách hàng. Tóm tắt vụ việc như sau Chị Mai Thị H trú tại 47, NTX, phường Hiệp Hoà Bắc, Quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng khiếu nại về việc Mobifone làm lộ bí mật khách hàng khiến gia đình chị tan vỡ. Chị H sử dụng dịch vụ MobiCard được 2 năm. Ngày 21/11/2005, chồng chị mang về những bảng in chi tiết số điện thoại của chị từ tháng 5/2005 đến tháng 9/2005. Trong đó, chồng chị gạch rõ từng ngày chị thực hiện bao nhiêu cuộc gọi, gọi vào những số nào, giờ nào? Chồng chị còn truy ra hơn 20 số điện thoại của những người đàn ông gọi cho chị, gọi điện đến từng người tra hỏi tên, tuổi, địa chỉ... Cuối cùng, chị H phải kí vào đơn ly dị mặc dù không hề mong muốn Chị H đã tìm đến bộ phận chăm sóc khách hàng của MobiFone tại Đà Nẵng. Nhân viên ở đây cho rằng có thể chồng chị đã biết mã pin điện thoại của chị và vào trang web của MobiFone để in bảng chi tiết. Tuy nhiên, chị H khẳng định là chưa bao giờ dùng máy của mình để xin mã pin và chị cũng chưa bao giờ vào trang web của MobiFone để đăng ký! Chị H cho biết sẽ khởi kiện MobiFone về vụ làm lộ thông tin này. Chiều 23/5/2006, ông Trịnh Hồng Kim - Giám đốc MobiFone khu vực 3 cho biết "Đối với thuê bao MobiCard, việc thực hiện tính cước online, quản lý các cuộc gọi chi tiết của khách hàng được tập trung tại Hà Nội. Chúng tôi không quản lý nên không có chuyện bí mật các cuộc gọi của khách hàng tại Đà Nẵng bị lộ từ phía chúng tôi". Bất bình trước lời giải thích của Mobifone, chị H đã làm đơn khởi kiện công ty này tại Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. Theo nội dung đơn kiện, chị H cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời tư khi mạng Mobifone tiết lộ nhật ký cuộc gọi của chị cho chồng chị, dẫn đến gia đình chị tan vỡ và yêu cầu phía Mobifone phải bồi thường và xin lỗi chị. Ngày 5/1/2006, Hội đồng xét xử đã tuyên án. Theo nội dung bản án, Hội đồng xét xử xét thấy có hành vi xâm phạm bí mật đời tư chị H của mạng di động Mobifone, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình chị, vi phạm Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền bí mật đời tư, Điều 9 pháp lệnh bưu chính, viễn thông 2002. Từ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị Mai Thị H, yêu cầu mạng di động Mobifone bồi thường cho chị H số tiền là 3 triệu tám trăm năm mươi VNĐ. Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng đưa ra lời cảnh cáo với mạng di động Mobifone không được tiết lộ bí mật của khách hàng khi không có sự cho phép và yêu cầu đơn vị này xin lỗi chị H về hành vi của mình. Thực tế hiện nay cho thấy, việc quản lý, giữ bí mật thông tin cá nhân của khách hàng tại các công ty viễn thông còn rất lỏng lẻo. Thậm chí, còn có cả tình trạng nhân viên một số mạng di động đọc các tin nhắn có nội dung "lạ" của các khách hàng, sau đó in ra và photo truyền nhau đọc tại công ty. Tuy đây chỉ là trò vui đối với các nhân viên này nhưng xét trên phương diện pháp luật, đây là sự vi phạm nghiêm trọng quy định bảo mật thông tin của khách hàng. Bí mật đời tư của một diễn viên Sáng ngày 9/6/2008, Tòa án nhân dân Hà Nội chính thức ra quyết định xét xử kín vụ truyền bá đoạn phim sex Hoàng Thuỳ Linh. Viện kiểm sát nhân dân TP. Hà Nội cáo buộc bốn bị cáo có hành vi tàng trữ, vận chuyển, biên tập đoạn phim sex bao gồm - Nguyễn Hữu Tài sinh năm 1984, trú tại phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học FPT-Arena. - Vũ Thị Thùy Linh sinh năm 1986, trú tại ngõ Linh Quang, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học Dân lập Thăng Long. - Võ Thanh Hiệp sinh năm 1982, trú tại phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, là sinh viên trường Đại học FPT. - Nguyễn Thu Linh sinh năm 1986, trú tại phường Giảng Võ, quận Ba Đình, là học viên Trung tâm Đào tạo thời trang London, Hà Nội. Cả bốn bị cáo đều bị truy tố về tội "truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy" theo quy định tại Điều 253, Khoản 2, điểm b, d – Bộ luật hình sự. Theo cáo trạng, Hoàng Thùy Linh là diễn viên tham gia đóng phim “Nhật ký Vàng Anh” phát trên VTV3 - Đài Truyền hình Việt Nam và Vũ Hoàng Việt có quan hệ tình cảm thân thiết. Ngày 5/7/2007, Linh và Việt quan hệ tình dục, tự ghi hình bằng điện thoại di động của Linh tại nhà Việt. Sau đó, Việt đã lưu hai đoạn phim trên vào máy tính cá nhân. Còn Linh lưu vào điện thoại di động để xem và đã xóa. Thông qua các mối quan hệ xã hội, 2 đoạn phim trong máy tính của Việt đã rơi vào tay 4 bị cáo nêu trên. Có đoạn phim sex trong tay, Nguyễn Hữu Tài biên tập, đánh thêm dòng chữ Love vào phía dưới bên trái của đoạn phim để những người muốn truy cập vào Internet đều dễ dàng xem được đoạn phim sex “Vàng Anh” theo cách thông thường. Khoảng 1h ngày 16/10/2007, Nguyễn Hữu Tài đã phát tán đoạn phim sex “Vàng Anh” do Tài biên tập lên mạng Internet tại một số trang web. Còn Võ Thanh Hiệp, Nguyễn Thu Linh và Vũ Thị Thùy Linh sau khi nhận được đoạn phim sex “Vàng Anh” do Tài biên tập đã lại tiếp tục phát tán trên mạng Internet đoạn phim sex với thời lượng 16 phút 40 giây. Sau 1h ngày 16/10/2007, việc phát tán đoạn phim sex giữa Hoàng Thùy Linh và Vũ Hoàng Việt đã tăng lên cấp số nhân. Đỉnh điểm trong ngày 16/10/2007, trang của Nguyễn Hữu Tài có sự hỗ trợ các địa chỉ email của Võ Thanh Hiệp, Vũ Thị Thùy Linh và Nguyễn Thu Linh đã có số người truy cập lên tới người. Con số này tiếp tục tăng với tốc độ chóng mặt trong các ngày tiếp theo và gây nên 1 làn sóng dư luận xã hội bất bình kéo dài trong nhiều tuần. Hội đồng xét xử xác định việc truyền bá này là vi phạm pháp luật, trái truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục văn hóa dân tộc, tác động tiêu cực đến xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Sau khi xem xét những tình tiết giảm nhẹ như cả 4 bị cáo đều có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử đã tuyên án tù treo cho cả 4 bị cáo. Cụ thể mức án như sau Nguyễn Hữu Tài 30 tháng tù treo; Võ Thanh Hiệp 24 tháng tù treo; Vũ Thị Thùy Linh 24 tháng tù treo; Nguyễn Thu Linh 20 tháng tù treo. Trong trường hợp cụ thể này, đây là một diễn viên được nhiều người biết đến. Hậu quả về tinh thần và vật chất đối với cô là rất lớn. Sau sự việc xảy ra, những tập phim tiếp theo do diễn viên này thủ vai phải dừng lại. Cũng có thể, rất lâu nữa, cô diễn viên này mới được mời đóng phim hay làm MC... Như vậy thiệt hại về vật chất đối với cô là rất lớn. Trong Bộ Luật Dân sự có quy định rõ ràng về quyền được bảo vệ danh dự nhân phẩm; quyền được bí mật về đời tư; quyền được bí mật về hình ảnh. Khi các quyền trên bị xâm phạm thì trong Bộ Luật Hình sự cũng quy định vào Điều 121 "Tội làm nhục người khác”. KẾT LUẬN Như vậy, việc việc Bộ luật dân sự 2005 chưa có định nghĩa rõ ràng về bí mật đời tư khiến cho việc xét xử các vụ việc liên quan của toà án cũng như việc người dân thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền của cá nhân về bí mật đời tư còn gặp rất nhiều khó khăn. Các vụ việc nhiều khi đã được toà giải quyết nhưng vẫn để lại dư luận vì chưa có những căn cứ pháp luật thật rõ ràng khi xét xử. Vì vậy, biện pháp trước mắt Toà án nhân dân Tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để việc giải quyết của Toà án đối với các vụ việc tương tự được thống nhất, khách quan. Về lâu dài, cần xây dựng những quy định cụ thể, thống nhất về vấn đề bí mật đời tư để không ai có thể lợi dụng dụng sự chưa rõ ràng của pháp luật nhằm đạt được mục đích của mình. Mặt khác, cần có những quy định nghiêm hơn với những hành động coi thường pháp luật, xâm phạm thô bạo bí mật đời tư của người khác. Tăng cường tuyên truyền cho người dân hiểu và nhận thức được quyền chính đáng của bản thân và tự mình có những biện pháp bảo về quyền đó một cách phù hợp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007. 2. Lê Đình Nghị chủ biên, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009. 3. Luật giao dịch điện tử năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành. 4. Nghị định của Chính phủ số 57/2006/NĐ-CP ngày 9/6/2006 về thương mại điện tử. 5. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành 6. TS. Lê Đình Nghị, Bàn về khái niệm quyền bí mật đời tư, Trường Đại học Luật Hà Nội, 7. TS. Lê Đình Nghị, Xung quanh một vụ kiện về việc xâm phạm bí mật đời tư, Trường Đại học Luật Hà Nội, 8. TS. Lê Đình Nghị, “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu nàyBí mật đời tư - vấn đề lí luận và thực Bí mật đời tư là gì? Căn cứ pháp lý Bộ luật dân sự 2005 Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu sự kiện, hoàn cảnh về đời tư của cá nhân mà người khác không được loan truyền nếu không được người đó đồng ý hoặc pháp luật cho phép. Bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Quyền đối với bí mật đời tư gồm cả quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và quyền tự do thư tín của công dân. Do đó, không ai được khám xét chỗ ở, bóc, mở, kiểm soát thư, điện tín, điện thoại, bưu kiện của người khác nếu mình không phải là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Người bị vi phạm bí mật đời tư có quyền yêu cầu người vi phạm phải a. Chấm dứt hành vi vi phạm. b. Xin lỗi, cải chính công khai. c. Bồi thường thiệt hại. Trường hợp hành vi vi phạm cấu thành tội phạm thì người vi phạm bị xét xử về tội xâm phạm chỗ ở của công dân,tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện báo của người khác.

bí mật đời tư